|
|
||||||||||||||||||||
|
|||||||||||||||||||||
NGHIÊN CỨU VÀ PHIÊN DỊCH ĐẠI PHẨM THỨ NHẤT
PHẦN HAI Mục Lục | Bài Tựa | Tiểu Phẩm I | Tiểu Phẩm II | Tham Khảo
Tiểu Phẩm III | Tiểu Phẩm IV | Tiểu Phẩm V | Thiên Thai Trí Giả ___________________________________________________Bài Tựa
{1a7}
Chỉ và Quán tức chiếu soi và tịch tĩnh (1), {giáo pháp nầy}
chưa từng được nghe nói đến từ những thế hệ trước,
cho đến khi tôn sư Trí Khải (2) vào ngày thứ hai mươi sáu
tháng tư năm thứ mười bốn đời Khai Hoàng (K’ai-huang) (594),
tại chùa Ngọc Tuyền (Yu-ch’uan Ssu) đất Kinh Châu (Ching-chou)
(3), bắt đầu thuyết giảng tác phẩm nầy mỗi ngày hai lần
vào mùa kiết hạ, hết lòng chia cho người dòng {trí tuệ}
của tôn sư. Mặc dù sự mong muốn giáo đạo của tôn sư
được biết là không biên giới (5), ngay sau khi Thiên Thai Trí
Khải thuyết giảng xong phần chánh quán (6), tôn sư dừng việc
chuyển bánh xe pháp (7) và không luận đến những phần sau
cuối của tác phẩm (8).
{1b9}
Thuở xưa có một vì vua không muốn xây cái chuồng nơi vắng
vẻ để nhốt con voi của nhà vua nhưng lại để con voi nầy
ở gần lò sát sinh (36). Có khác gì hơn {loài thú nhốt trong
chuồng} là con người, khi tiếp cận thánh nhân được lợi
ích từ giáo pháp. Lại nói về một người Bà La Môn bán
xương sọ, một cái gậy xỏ thẳng qua một số sọ, qua phân
nửa một số sọ, và không qua hết số sọ còn lại. Người
Phật tử dựng một cái tháp cho những cái sọ cây gậy xuyên
qua, tôn kính lễ bái, và được tái sinh cõi Trời (37). Nghe
được pháp có những lợi ích như vậy. Vì những lợi ích
nầy mà Thế Tôn đã trao truyền pháp bảo (38).
Ba loại Chỉ và Quán {1c1} Tôn sư Trí Khải truyền trao ba pháp Chỉ và Quán của Tổ Tuệ Tư : (i) Tiệm và Tiến, (ii) Bất Ðịnh, và (iii) Viên và Ðốn. Tất cả đều là pháp Ðại Thừa. Tất cả đều lấy thực tướng (shih-hsiang) làm đối tượng quán chiếu, và có thể được gọi là Chỉ và Quán. Tiệm Chỉ Quán khởi đầu cạn nhưng dần dần vào sâu, giống như trèo lên các bậc thang. Bất Ðịnh Chỉ Quán (59) trước và sau tương tác, giống như màu sáng của kim cương dưới ánh mặt trời thay đổi tùy vị trí (60). Trong Viên Ðốn Chỉ Quán, khởi đầu và chung cuộc không phải là hai điều khác biệt, sự hành trì sánh với người có thần lực chiếm ngự được khoảng không (61). Vì ba loại căn cơ, chúng tôi giảng dạy ba lối đến với pháp, và đưa ra ba điều tương tự nầy (62). Ðã giải thích về ba loại Chỉ và Quán, giờ đây chúng tôi tiếp tục quảng diễn xa hơn. Tiệm Tiến Chỉ Quán {1c6} Ngay ở bước đầu tiên của pháp môn Tiệm Chỉ Quán, hành giả thấy được bản tánh của chân lý tối thượng. Chân lý nầy bất khả tư nghị, nhưng phương pháp tiệm và tiến dễ thực hành (63). Hành giả an trụ nơi giới (kuei-chieh), từ đó bỏ những thói quen xấu, và hướng về điều thiện. Những lối đi của lửa, máu và đao kiếm (64) phải dừng lại, và hành giả đến được với ba cõi khá hơn (65). Tiếp theo, hành giả thực tập thiền quán (66), qua đó vượt được màng lưới của vọng dục, và đến được chỗ quán chiếu về tướng và vô tướng (67). Kế đến hành giả đưa trí tuệ đạt đến tự do từ vô lậu (wu-lou) (68), nơi đó vượt thoát ngục tù tam giới, đắc Niết Bàn. Sau đó hành giả làm kiên cố đức từ và bi, không chú mục vào sự chứng đắc, và vào Bồ Tát đạo (69). Cuối cùng, hành giả vun bồi {cái thấy} về {chính} thực tại, vượt qua biên kiến từ hai lối nhìn sai lệch, và đạt đến thường trụ viên mãn (70). Ðây là bức vẽ của pháp môn Tiệm Tiến Chỉ Quán, đi từ cạn đến sâu. Bất định Chỉ và Quán {1c12}
Bất Ðịnh Chỉ Quán thì không đi theo thứ lớp đặc biệt
nào (71). Có khi dùng phương pháp Tiệm như đã nói, có lúc
lại dùng phương pháp Ðốn, như sẽ được trình bày sau đây
(72), thay đổi tùy thời, lúc cạn lúc sâu. Khi thì hướng
về Sự (Shih), khi thì hướng về Lý (Li) (73). Có trường hợp
cho thấy thế tục {tất đàn} là đệ nhất nghĩa tất đàn,
hoặc đi vào đệ nhất nghĩa từ vị nhân và đối trị tất
đàn (74). Pháp môn nầy có thể liên quan đến sự an tĩnh
(hsi) khi quán (kuan) để đạt đến chỉ (chih), hoặc liên hệ
đến sự chiếu soi (chao) của chỉ để đạt đến quán (75).
Ðây là lý do tại sao gọi là Bất Ðịnh Chỉ Quán.
Viên Ðốn Chỉ Quán (84) {1c23} Từ điểm khởi đầu, Viên Ðốn Chỉ Quán lấy thực tướng (shih hsiang) làm đối tượng (85). Không cần biết đối tượng quán chiếu là gì, đều được nhìn đồng nhất với trung đạo (86). Ở đây, không có điều gì ra ngoài sự thực (chen-shih). Khi hành giả trụ {tâm} vào pháp giới {như cảnh}, và hợp nhất tâm với cảnh {như nó là}(87), thì không một sắc, một hương nào mà không phải là trung đạo (88). Cũng như vậy đối với cảnh giới của ngã, cảnh giới của chư Phật, và cảnh giới của chúng sinh (89). Bởi vì tất cả ấm giới (skandha) và căn, trần xứ (ayatana) [của thân và tâm] là như thị, không hề có khổ để phải chối bỏ (90). Bởi vì chính vô minh và phiền não đồng nhất với Bồ Ðề, không hề có nguồn cội khổ cần phải tiêu diệt. Bởi vì hai lối nhìn cực đoan là trung đạo, và tà kiến là chánh kiến, không có đạo để tu. Bởi vì luân hồi đồng với Niết Bàn, không có gì để chứng đắc. Bởi vì hẳn nhiên khổ và nguồn khổ không hiện hữu, phàm không có mặt. Bởi vì đạo và tịnh không hiện hữu, thánh cũng không. Một thực tướng, nơi đó là tất cả- không một thực tại nào đứng ở bên ngoài. Tất cả thực tại tự tánh thuần tịnh, gọi là ‘Chỉ’ (91), đó là, dù tịch nhưng hằng chiếu, gọi là ‘quán’ (92). Mặc dù minh định sự khác biệt giữa hai giai đoạn hành trì trước và sau, tuyệt đối không phải là hai, không hề có sự chia cắt ở giữa. Ðây gọi là ‘Viên Ðốn Chỉ Quán’. Kiểm chứng ba loại Chỉ và Quán qua kinh điển (93) {2a2}
Giờ đây hãy tạm gát lại hai phương pháp Tiệm và Bất Ðịnh
Chỉ Quán, chúng tôi sẽ giải thích sâu hơn về pháp môn Viên
Ðốn Chỉ Quán căn cứ vào các tạng kinh.
Tham khảo 1 Chan
Jan (Trạm Nhiên) (T46.142b6-9) nói: ‘Hai chữ ‘Chỉ Quán’
trực tiếp diễn tả thể (t’i) {của giáo pháp} được nghe
{trong các bài giảng của Trí Khải trong tác phẩm MaHa Chỉ
Quán}. Hai chữ ‘Tịch Chiếu’ xưng tán giá trị của thể
tánh nầy. Ðiều nầy để nói rằng yếu tính của Chỉ là
Tịch, yếu tính của Quán là Chiếu. Hoặc hành giả nói đến
mười pháp quán tưởng hoặc mười đại phẩm (như toàn bộ)
từ thủy chí chung không có bất cứ {khía cạnh nào của MaHa
Chỉ Quán} mà không liên quan đến hai pháp môn Chỉ và Quán
{tức}tịch và chiếu’.
Lời tựa của Thiên Thai Trí Khải {3b10}
Bây giờ chúng ta sẽ nói về mười phẩm [trong văn bản].
Phẩm I là phẩm Ðại Ý. Phẩm II liên quan đến việc chú
thích danh tự (1). Phẩm III diễn tả những yếu tánh [cái
mà danh từ Chỉ và Quán muốn nói] (2). Phẩm IV trình bày làm
thế nào vạn pháp bao gồm [trong sự tu trì Chỉ và Quán](3).
Phẩm V phân biệt giữa phiến diện (p’ien) và viên mãn (yuan)
[Chỉ Quán] (4). Phẩm VI đưa ra những phương tiện chuẩn bị
[cho Chỉ và Quán] (5). Phẩm VII luận về chánh quán (cheng-kuan)(6).
Phẩm VIII liên quan đến quả và báo [của Chỉ và Quán]. Phẩm
IX nói về sự giáo hóa chúng sinh [từ Chỉ và Quán]. Phẩm
X như phần quy về [đại pháp giới]. Sự phân chia ra làm mười
thuần là một sự giả lập trên con số, con số 10 chẳng
nhiều cũng chẳng ít (7). Phẩm mở đầu cho thấy rằng mục
tiêu hành trì nằm ở dha , trong khi phẩm sau cùng chuyển đạt
đề tài cốt lõi của tác phẩm tới chỗ tận cùng (8). Như
vậy, bản văn bắt đầu từ chỗ thù thắng và kết thúc
ở chỗ thù thắng, diễn tiến như một toàn khối xuyên suốt
mười phẩm nầy.
Tham khảo 1 Tên gọi ‘Chỉ’ (chih) và ‘Quán’ (kuan) nói đến trong phẩm nầy theo phối cảnh tương, tuyệt, hòa, biệt, và những gia bảo của tam thánh đức giải thoát (đọc T46.21b-23c). Một chủ đề tương tự về Chỉ và Quán cũng liên quan đến tám phẩm khác trong tác phẩm MaHa Chỉ Quán. Chan-jan (T46.157c1-2) ghi chú: ‘Từ đại ý tổng quát về Chỉ và Quán cho đến phẩm thứ mười Chỉ Quy, bất cứ ai thuyết giảng [về tác phẩm nầy] nên luôn luôn chiếu rạng tác phẩm trong chỉ và quán.’2 MaHa Chỉ Quán T46.23c-29c. Bốn phối cảnh được dùng để hiển lộ thể tánh (t’i) của chỉ và quán: chỗ tương quan trong sự phân chia thành tứ giáo, tuệ nhãn, các cõi hoặc cảnh giới của [trí tuệ], và cái tiếp nhận hoặc xa lìa sau cùng. 3 Ðọc T46.29c-32a. Chỉ và Quán bao gồm vạn pháp trong sáu đường- qua cách gồm thu thù thắng tất cả lý (li), tất cả mê lầm, tất cả những hình thức của trí tuệ, tất cả thực hành, tất cả các địa, và tất cả giáo pháp. 4 Ðọc T46.32a-35c. Thiên lệch hoặc phiến (p’ien) diện và bao dung hoặc viên (yuan) mãn. Chỉ và Quán được minh định theo (1) Ðại Thừa và Tiểu Thừa, ý nghĩa bán (pan) và mãn (man), (3) học thuyết thiên và viên, (4) pháp môn tiệm và đốn, (5) giả và chân. 5 ‘Phương tiện’ ở đây chỉ cho ‘Thiên Thai Nhị Thập Ngũ Phương Tiện’: (1) Cụ ngũ duyên, (2) Ha ngũ dục, (3) Khí ngũ cái, (4) Ðiều ngũ sự, và (5) Hành pháp tinh tiến. Những phương tiện nầy xác định phối cảnh an lạc với chỉ và quán cũng như gây dựng nội dung tinh thần và thể chất cần thiết để có thể tu tập chỉ và quán, tức chánh quán. Vì lý do nầy, 25 phương tiện thường được nói đến như ‘phương tiện thiện xảo’ hoặc ‘viễn phương tiện’, đối lại với phương pháp tu tập hoặc ‘cận phương tiện’ được trình bày trong chỉ và quán. Trí Khải giải thích rất chi tiết về 25 phương tiện nầy trong tác phẩm ‘Thứ đệ thiền môn’ (T46.483c-491c), Tiểu Chỉ Quán (T46.462c-466c), và MaHa Chỉ Quán, phẩm VI (T46.35c-48c), cũng như trong tác phẩm ‘Quán Tâm Luận Sớ’ (T46.603c-607c) của Quán Ðảnh. Bản dịch Anh ngữ tác phẩm ‘Tiểu Chỉ Quán’ có thể tìm thấy trong Luk, Secret of Chinese Meditation, và trong Goddard và Wai-tao, A Buddhist Bible. 6 Tên gọi tắt phẩm ‘Tu tập Chỉ Quán đúng cách’ hoặc còn gọi là ‘Chánh tu Chỉ Quán’ (cheng hsiu chih-kuan). Ðây là phẩm trọng yếu và giảng rộng nhất trong số mười phẩm trong MaHa Chỉ Quán, chiếm hơn nửa tác phẩm (T46.48c-140c). Lại được chia ra làm mười tiểu mục, như chúng ta được biết là mười đối tượng hoặc cảnh giới quán chiếu (kuan-ching). Từng cõi cảnh trong mười cõi cảnh nầy, phương pháp quán chiếu (kuan-fa) nổi tiếng lại được dùng như chánh quán. Tác phẩm MaHa Chỉ Quán chấm dứt ở đại phẩm thứ bảy, chừa lại không giảng ba mục cuối của phẩm nầy, cũng như để lại ba đại phẩm thứ tám, thứ chín và thứ mười của toàn tác phẩm. 7 Mặc dù cả hai Trí Khải và Trạm Nhiên đều không chánh thức trưng dẩn kinh Hoa Nghiêm, Trạm Nhiên (T46.157c3) ghi lại rằng: ‘trong kinh Hoa Nghiêm, những pháp môn khác nhau được liệt kê ra thành mười’. Ðọc phẩm 12-14 (trong bản 60- quyển) mô tả thực hành và công đức liên quan đến sự hiển lộ ý tưởng giải thoát và bước vào mười cảnh (T9.44a-462c). 8 Dha (Ðà hoặc Ðồ) là mẫu tự cuối trong 42 mẫu tự Siddham- Sanskrit tương đương với trí tuệ (Pancavimsati) và Ðại Trí Ðộ Luận với những đề mục thay đổi khác nhau về pháp vô sinh. Về mẫu tự nầy, Ðại Trí Ðộ Luận nói: ‘Hành giả khi nghe được liền nhận ra rằng vạn pháp bất khả đắc. Không có mẫu tự nào trên dha’. Trí Khải, tuân theo tập ‘Ssu-shih-erh tzu men’ (Tứ Thập Nhị Tự Môn) của sư phụ là tôn giả Huệ Tư, dựa vào 42 mẫu tự từ A đến Dha với 42 thứ bậc của phẩm An Lạc Hạnh và kinh Hoa Nghiêm để đưa ra các quả vị tu chứng của Bồ Tát Viên giáo. Cũng như tất cả mẫu tự là sự chuyển xoay của mẫu tự cái A, nên 42 quả vị từ chỗ sơ phát tâm Bồ Ðề đến chỗ thành tựu Bồ Tát Ðạo chỉ là một sự phát huy của trí tuệ vô sinh căn bản trong đó là đường đạo. Như vậy, tiến trình của Phật đạo được đánh dấu không phải qua những chuyển đổi phẩm tính tư tưởng hoặc trụ địa, nhưng từ một sự chín muồi vô biên hoặc sức mạnh của trí tuệ có được ngay lúc sơ phát tâm. Mặc dù không có sự sai khác về phẩm vị từ chữ A thứ nhất, chữ Dha sau cùng cho thấy sự chứng đạt rốt ráo đạo Bồ Ðề. Chan-jan (T46.157c10-12) nói: ‘Năm tiểu phẩm của Phẩm Ðại Ý bắt đầu từ sơ phát tâm đến quy về đại pháp giới. {Ðại pháp giới} không gì khác hơn là tam tánh đức Bồ Ðề, trong đó tất cả hồi quy. Tam tánh đức chính nơi đó là ý nghĩa cao tột, đó là mẫu tự dha. [Phẩm] kết luận nói về sự quy nguyên. Tam tánh đức ghi dấu sự hồi quy đưa ra cứu cánh của sự huân tu cho chính mình và làm lợi ích cho người. Vì vậy, [văn mạch] nói rằng: {chuyển đạt cứu cánh}’. 9 Ðoạn văn nầy, theo Chan-jan, cống hiến một chú thích tổng quát về sự ‘sinh khởi’ của tác phẩm MaHa Chỉ Quán như một toàn thể. Chan-jan (T46.157c16-18) nói: ‘Từ Lý (li) không có năng sinh hoặc sở sinh để nói đến, cũng không có bất cứ chủ thể [là người làm hành động sinh], đối với sự kiện nhân và quả [tương quan giữa] tự và tha. Vì lý do nầy, bản văn nói: {nhân và duyên}. Ðường lối chú giải [của Trí Khải] gồm có hai mặt tổng và biệt. Về mặt tổng quát, mỗi phẫm tự bao gồm hai nghĩa sinh và khởi.’ 10 Với sự phân tích đặc thù về sinh và khởi của bản văn, Trí Khải giới thiệu một sự phân biệt giữa sheng (producing) và ch’i (originating). Chan-jan (T46.157c19-20) nói: ‘Với cái nhìn đặc thù, [nói rằng]{có sự sinh từ những phẩm trước], có nghĩa tác động đưa đến những phẩm sau.[Nói rằng]{có sự phát khởi từ những phẩm sau}, có nghĩa cái sau bắt nguồn từ cái trước}. Những đoạn văn của Chan-jan tiếp theo sau đây. 11 Chan-jan nói: (T46.157c20-22) ‘Sinh và khởi lần lượt hoán đổi theo điều kiện và tiến trình. Ðiều nầy để nói rằng những phẩm trước tác động như điều kiện căn bản cho những phẩm sau. Và những phẩm sau là những tiến trình dựa theo những phẩm trước. Ðây là sự phân tích theo lối nhìn biệt thù. Về mặt tổng quát, mỗi phẩm đều có điều kiện căn bản và sự khơi nguồn tư tưởng.’ 12 Hai mệnh đề trước theo phẩm ‘Thích Danh’ thứ hai. Giải nghĩa hai từ ‘Chỉ’ và ‘Quán’, Chan-jan (T46. 158a1-3) nói: ‘Người tỉnh thức không còn tìm kiếm Niết Bàn không viên mãn hoặc nhỏ hẹp- đây là ý nghĩa ‘không còn chịu luân chuyển’. Sự kiện hành giả không còn bị ô nhiễm bởi tam hoặc là chỗ được gọi là {đại thanh tịnh}’. 13 Theo phẩm III. Chan-jan (T46.158a 4-6) nói: ‘Danh có thể làm cho sáng tỏ. {Thể tánh} là {đối tượng} được làm. Vì tên gọi, người ta biết rằng có một đối tượng được nói đến. Với nghĩa nầy, [văn mạch] dùng chữ ‘lãnh hội’. Không nói rằng [thể tánh] nầy được liễu ngộ dưới hình thức của một sự thực chứng (cheng-te)’. 14 Theo phẩm IV. Chan-jan (T46.158a6-7) nói: ‘{Thể tánh chính nó bao gồm vạn pháp} tức có ý nói rằng thể tánh chỉ cho chân như, và chân như thì gồm cả giả lập. Như vậy, giả và chân [cùng] gồm thu vạn pháp’. 15 Theo phẩm V. Chan-jan (T46.158a7-8) nói: ‘Giả và chân gồm thu đó không vượt ra ngoài thiên hoặc viên. Như vậy, chân như và giả tướng được phân biệt trên căn bản của thiên và viên.’ 16 Theo phẩm VI. Chan-jan (T46.158a 8-10) nói: ‘Phần sau của đoạn văn có thể được hiểu tùy thuận. Mặc dù mười phẩm phát sinh và bắt nguồn [theo như cách đã nói ở phần trên], bản văn vượt trên tất cả, liên quan đến việc đưa đến [đường lối] thực hành trên căn bản liễu đạt. Vì lý do nầy, ba phẩm sau cuối chỉ được đưa ra vắn tắt mà không được thuyết giảng.’ 17 Hoặc ‘chánh quán được thành lập’. Theo đại phẩm VII, Tu tập đúng Chỉ và Quán. 18 Phẩm VIII. 19 Phẩm IX. 20 Phẩm X. 21 Theo Chan-jan, giải thích tương tự về sự viên mãn của trí tuệ ví như châu ngọc chứa đựng trong một chiếc túi, từ Ðại Trí Ðộ Luận, T25.518a. Chan-jan lập luận (T46.158a 19-22): ‘Chỗ nầy giải thích những lý do phân biệt [bản văn qua mười phẩm]. Không có sự xếp đặt mười phẩm qua mười đề mục, có thể người đọc không thể nào biết được của cải chứa đựng bên trong... Ý nghĩa phong phú của mười phẩm cũng như châu ngọc chứa trong một chiếc túi. Sự phân định theo mười đề mục sánh với hành động chạm tay vào trân bảo và mang ra phơi bày bên ngoài.’ 22 Ðó là tam muội và bát nhã. Cả hai đều phù hợp với phương pháp thực hành Chỉ Quán. 23 Từ một ẩn dụ trong Ðại Trí Ðộ Luận, T25.640c: ‘Hoặc như trong thời tiết nóng bức, có một cái ao nước sạch mát. Bất cứ ai có mắt và chân đều có thể bước xuống.’ Mắt, theo Chan-jan (T46.148b20-22) tức trí tuệ liễu ngộ giáo pháp; chân tức thực hành. 24 Mặc dù theo truyền thống có nói đến 18 pháp bất cộng hoặc phẩm hạnh độc tôn của Phật (avenika buddhadharma), lối diễn tả của Chan-jan (T46.158b26-29) ở đây được hiểu nói đến phẩm hạnh của các bậc thánh (arya) và ‘bất cộng’ với phàm phu (prthagjana). 25 Chan-jan (T46.158c1-17) giải thích về ‘Tung’ như từ trong đó một điểm nối tiếp xuyên qua các thứ lớp uyên thâm khác nhau. Lối giải thích về ‘Hoành’ trình bày một bức tranh toàn vẹn trong phần tổng hợp. 26 Những câu trả lời đối với các câu hỏi trước thì không được đưa ra theo thứ tự như câu hỏi. Lời đáp cho câu hỏi thứ tư về mắt và chân đến sau lời đáp thứ sáu về ngã và nhân. 27 Chan-jan lập luận (T46.158b7) rằng chỗ nầy là bảy phẩm đầu, thêm phẩm thứ chín, không phải tám phẩm đầu. Chan-jan (T46.158b8-11) nói: ‘Bởi vì tám [phẩm] không liên quan đến sự thực chứng chân lý, chỉ được xem là giả lập tạm thời. Tuy nhiên, thấy rằng sự giả lập nầy tự yếu tính là nền tảng chân thực, chúng ta nói rằng {chân dưới sự hổ trợ của giả}. Quả và Báo được chứng ngộ [như kết quả của thực hành] thấy rằng giả lập vượt ba cõi [sinh tử]. [Với nghĩa nầy], giả được chứng ngộ từ chân; thực chứng được thể (t’i) đưa đến dụng (yung), và cái dụng nầy chính là sự giả lập. Vì vậy, bản văn nói: {giả dưới sự hổ trợ của chân.}’ 28 Không kể phẩm X sau cùng. 29 Chan-jan (T46.158b16-17) giải thích: ‘Bảng kể tên những phẩm trước [gọi phẩm 7 là] {Chánh Chỉ và Quán}. Ở đây, các chữ{tập và Chỉ} bị lướt qua, còn lại {Chánh Quán}. Nhưng chánh tu thì không ra ngoài hai phương pháp Chỉ và Quán. Bất cứ điều gì liên quan đến Chỉ đều thuộc về mặt thiền định. Bất cứ điều gì liên quan đến Quán đều thuộc về trí tuệ. Trong những phẩm khác, sự kiện thiên về liễu ngộ không có nghĩa đối nghịch với ý niệm về Chỉ. Tuy nhiên, như một toàn thể, các phẩm nầy phần chính thuộc về liễu ngộ, và liễu ngộ thì không ngoài [khía cạnh] quán chiếu.’ 30 Thứ tự của bản văn không được cân xứng ở đây. Chan-jan (T46.158b18) nói thêm rằng phẩm IX, Giáo Hóa Chúng Sinh, nên bao gồm như hậu quả. 31 Chan-jan (T46.158b19-23) ghi chú: ‘Theo lý, [bản văn] nên nói rằng năm phẩm đầu tiên cùng với phẩm {Giáo Hóa Chúng Sinh} là mắt. Mắt diễn đạt cái hiểu. Năm phẩm đầu là mắt của sự thực hành hướng về ngã. Phẩm {Giáo Hóa Chúng Sinh} khiến tha nhân phát huy cái thấy [hiểu]. Từ phẩm {Phương Tiện} đến phẩm {Quả Báo} là chân. Chân có nghĩa tác động. Phương Tiện và Chánh Quán diễn đạt tác động được đánh dấu bởi sự dụng công (abhoga); các trụ địa [được mô tả] trong phẩm Quả và Báo từ trụ vị thứ nhất có tính chất không cần dụng công (anabhoga).’ Về sau, từ đầu phẩm thứ 7, Trí Khải lập luận rằng sáu phẩm đầu tượng trưng cho ‘mắt’ hoặc trí tuệ, vì vậy nên phẩm thứ 6 được đổi vị trí. 32 Theo Chan-jan (T46.158b26-29) bảy phẩm đầu là {cộng} vì diễn đạt giáo lý hoặc thực hành áp dụng cho cả hai hàng phàm và thánh. Phẩm tánh diễn tả trong các phẩm {Giáo Hóa Chúng Sinh} và {Quả Báo} thì thuộc dòng thánh. Vì vậy nên gọi là {bất cộng}. 33 Chan-jan (T46.158c1-2) nói: ‘{Tổng} có nghĩa là nhân và quả, tự và tha cùng khắp [trong Ðại Ý}. {Biệt} có ý nghĩa đặc thù với những khác biệt hổ tương đan kết trong tám phẩm.’ 34 Chan-jan không khởi đầu trong việc phân chia {hiệp/quảng} ở đây, mặc dù về sau nầy, qua luận về MaHa Chỉ Quán (T46.159a 3-4) cũng như trong tác phẩm {Chih-kuan ta-i}(Chỉ Quán Ðại Ý) (T46.459b17-18), tôn giả nói đến phẩm Ðại Ý như toát yếu, và các phẩm khác như ‘quảng diễn’. 35 Theo lập luận khá dài của Chan-jan về cặp nầy (T46.158c2-18), bởi vì phẩm III (Thể Tướng) rõ ràng có cạn và sâu, riêng phẩm nầy có thể được gọi là tung. Những phẩm khác, ngoại trừ phẩm X được xem là hoành; tuy nhiên, nhìn kỹ thì tất cả các phẩm (ngoại trừ phẩm II) thấy có chiều sâu bất định, vì vậy, có thể được xem là có cả hoành lẩn tung. 36 Chan-jan (T46.158c25-159a1) khẳng định rằng đoạn vấn đáp thứ nhất được Kuan-ting đưa vào vì đoạn văn nầy phản ảnh bố cục văn mạch được giới thiệu lần thứ nhất qua bài tựa của Kuan-ting trong kỳ tái bản lần thứ hai tác phẩm MaHa Chỉ Quán. (Phần vấn đáp còn lại Chan-jan xem như là do chính Trí Khải biên soạn). Như vậy, {toát yếu} chỉ cho những luận về ba pháp môn Chỉ và Quán đã được nói đến trong bài tựa của Trí Khải ở phẩm Ðại Ý, nhưng về sau Kuan-ting hiệu đính lại, và mang ra khỏi tác phẩm, đặt vào cùng chỗ với bài tựa do chính Kuan-ting soạn trong kỳ tái bản lần thứ ba.{Ðại Ý}là tựa đề của một phẩm, hướng về viên đốn Chỉ và Quán. Ðọc Chan-jan, Chih-kuan fu-hsing sou yao chi (Chỉ Quán phụ hành sưu yếu ký) HTC 99.234b. Chan-jan (T46.159a 4-18) cực lực phản đối ý tưởng rằng viên đốn Chỉ Quán nói trong phẩm Ðại Ý (và chương chính của tác phẩm MaHa Chỉ Quán) khác với viên đốn thực hành bao gồm với những hình thức Chỉ và Quán {một trong ba} đã được đề cập đến trong phần ‘toát yếu’ từ bài tựa của Kuan-ting. Sự cảnh giác của Chan-jan ở điểm nầy cho thấy rằng có những người từng nghĩ rằng có một viên đốn Chỉ Quán {tuyệt đối} hiện diện như {một bên ngoài ba}. 37 Chan-jan (T46.159a 19-28) phân tích rằng câu hỏi, bắt đầu từ sự nhầm lẩn về ba pháp môn Chỉ và Quán- Tiệm, Ðốn, và Bất Ðịnh- với bốn phương pháp giáo hóa được biết như Tứ Hóa Nghi (Ssu hua i). Ba trong bốn phương pháp đầu, cùng là {hiển giáo}, đối lại với {mật giáo}. Về mật giáo, Thế Tôn thuyết {nhất âm}, nhưng mỗi thính chúng nghĩ rằng Thế Tôn giáo hóa cho riêng mình, chỉ nghe những lời mà người ấy có thể hiểu được. Người ấy, như cận kề Phật, lãnh thọ những lời giảng dạy riêng tư, nội dung giáo lý trở nên {bất định} bởi vì được xác định không phải từ người nói mà từ người nghe. Vì vậy, đây gọi là {bí mật bất định giáo}. Hurvitz, Chih-I, pp.244-247; Chappell, An Outline of the Fourfold Teaching, pp. 55-61. Tên gọi của ba trong bốn pháp môn giống như tên gọi ba loại Chỉ Quán, hành giả có thể nghĩ rằng có một pháp môn {bí mật} Chỉ Quán thứ tư tương hợp với mật giáo. Thực sự, hai pháp môn hoàn toàn khác nhau, và sự so sánh thì không thích ứng. 38 Chan-jan (T46.159a29-b13) phân tích câu trả lời của Trí Khải qua hai mặt: những người có thể thuyết giảng ‘bí mật’ Chỉ Quán và những người khả năng tiếp nhận hoặc tu tập pháp môn nầy. 39 Theo Viên Giáo, chỗ nầy tương đương với Thập Tín trong 52 quả vị, và cái thứ tư trong lục tức. Ðây là quả vị tương tự giải thoát tức bậc thánh (arya; sheng), và chính thức bước vào quả vị Bồ Tát bất thối chuyển. 40 Từ phẩm 19 kinh Pháp Hoa (Pháp Sư Công Ðức), T9.49c; Hurvitz, pp.273-274. Phẩm nầy, như toàn thể, lấy từ ý niệm về {sáu căn thanh tịnh}. 41 Nói cách khác, với pháp môn tiệm tiến Chỉ Quán, hành giả đã thấy được thể tánh từ điểm đầu tiên nhưng chứng đắc chân lý nầy qua từng bước. Chan-jan giải thích (T46.159b22-24): ‘Tiểu Thừa bị bỏ qua như sai lạc với mục đích hủy diệt sự trói buộc vào pháp môn nầy. Chỗ nầy căn cứ vào lập luận rằng Tiểu Thừa chưa hiển lộ được [chính đó] là giả lập, và như vậy, [trói buộc vào pháp Tiểu Thừa] tức chưa thực sự chứng ngộ được chân lý. Như vậy, với pháp môn tiệm tiến [Chỉ Quán thuộc Ðại Thừa], thì ngay cả sự vun bồi tiểu tiết nhất cũng thuộc về đại [thừa]’. 42 Hiển nhiên, Thứ Ðệ Thiền Môn diễn đạt MaHa Chỉ Quán, và Lục Diệu Pháp Môn là tác phẩm Kuan-ting nói đến trong bài tựa. 43 Chan-jan giải thích (T46. 159c6-7): ‘Văn tự biểu thị giả đế; vô văn tự biểu thị chân đế, phủ nhận cả hai tức chân như’. 44 Thực sự, chỉ có đại phẩm I và năm phần của phẩm nầy- năm tiểu phẩm của MaHa Chỉ Quán- được phân tích ở đây. 45 Theo chú giải của Chan-jan, T46.159c11-20. 46 Chan-jan giải thích (T46.159c23-25): ‘[Toát yếu] mang tựa đề là Ta-I (Ðại Ý), và tựa đề của năm tiểu phẩm có chữ {đại} vì nội dung tổng quát của chín phẩm- tất cả đều vĩ đại- được nói đại cương ở đây.’ 47 Bồ Tát dâng hiến sự chứng ngộ của chính mình và của chúng sinh, vì vậy Bồ Tát đồng thời {thượng, hạ}, {thượng cầu, hạ hóa}. 48 {Ðịnh} ở đây chỉ cho những quy chế giới luật lập ra để giúp cho việc thực nghiệm tam muội hoặc thiền định. Bốn [oai nghi] là: (1) tọa, (2) hành, (3) tọa và hành, (4) chẳng tọa, chẳng hành. 49 Từ kinh Ðại Niết Bàn, T12.613c. Phạm Thiên là cõi thấp nhất trong cõi trời Sắc giới, chỉ một bậc trên cõi Dục của chúng ta. Câu chuyện nói đến một nữ nhân nghèo, do thiện hạnh, được tái sinh lên cõi Phạm Thiên. Bản kinh đưa ra điểm trên: ‘Ngay đến người không cầu giải thoát, giải thoát cũng tự đến.’ 50 Chan-jan (T46.160a23-24) nói về {quả báo thù thắng}: ‘Mang đặc tính viên dung, từ địa thứ nhất [trong mười địa] cho đến giác ngộ [Bồ Ðề]. Bản văn đang có đặc biệt nói về sơ địa. Tuy nhiên, có nhiều người chưa từng nghe công đức thù thắng của sơ địa. Những người như vậy chẳng hoan hỹ cũng chẳng âu sầu về thành quả của họ. Chúng tôi thuyết giảng về quả báo thù thắng để khuyến tấn họ.’ 51 Chan-jan (T46. 160a29-b3) giải thích: ‘Thí dụ, trước khi được nghe kinh Pháp Hoa, chúng sinh vô cùng nhầm lẩn giữa giả và chân, không và hữu, lý và sự [khi được nói đến trong các bản kinh]. Nhưng một khi đã phân minh, giả mở ra, chân hiển lộ, giả và chân đứng đúng vị thế của nó khiến thính chúng hiểu rõ được mục tiêu nền tảng của giáo pháp. Lưới nghi đến từ sự trói buộc vào giáo lý đã bị phá tan, và thính chúng nhận ra được một nguyên lý mà ngoài nguyên lý đó không còn có gì khác. Họ vào được đại thể của tất cả pháp môn và biết được rằng tất cả giáo pháp vĩ đại đều có cùng một cứu cánh.’ 52 Từ kinh Ðại Niết Bàn, T12.688c. 53 Theo Chan-jan, T46.160b19-20. 54 Chan-jan giải thích (T46.160b22-26): ‘ Khi sự hoán chuyển trở nên hoàn hảo tất cả đều quy về mật tạng (mi-tsang). Ðối với ý niệm về thể tánh của mật tạng như là: ‘vô thủy vô chung’... {nên được hiểu như sau]: không có điểm khởi đầu, và như vậy mà khởi đầu, bởi vì hành giả vào đường đạo qua tam quán. Không có chỗ tận cùng, và như thế đó mà tận cùng, bởi vì hành giả rốt ráo đến được với tam tánh đức [Bồ Ðề]. Không ngăn ngại, ngay cả chướng ngại hiện tiền, là cái mà chúng ta tạm gọi là {tam hoặc}. Không đi qua, mà đi qua, là cái chúng ta tạm gọi là {tam tánh đức}.’ | |||||||||||||||||||||
| |||||||||||||||||||||