1 Cùng
với ý nghĩa truyền thống chỉ tình trạng thiền định, Trí
Khải thường dùng chữ tam-muội để bao gồm những phương
thức hành trì đưa đến những thực chứng như vậy. Vì vậy
bốn chữ ‘tứ chủng tam muội’ có thể được hiểu một
cách phong phú tức ‘bốn pháp môn hoặc đề mục tu tập
tam muội’.
Sự
diễn đạt thứ hai của bốn loại tam muội, gần với văn
bản Maha Chỉ Quán, thấy trong tác phẩm ‘Quán tâm luận sớ’
(Kuan-hsin lun shu, T no. 1921) của Quán Ðảnh (Kuan-ting) là môn
đồ và cũng là người hiệu đính tác phẩm Maha Chỉ Quán
của Trí Khải. Những học giả gần đây nhận xét rằng chất
liệu trong ‘Quán tâm luận sớ’ lấy từ một phần trong
Maha Chỉ Quán là tác phẩm có trước và văn thể thuần túy
hơn là bản văn đã hiệu đính mà chúng ta có ngày nay. Như
vậy, trong nhiều trường hợp làm sáng tỏ ý nghĩa bản văn
Maha Chỉ Quán, (đọc Sato, Tendai daishi no kenkyu, pp.364-400). Ðại
cương về phần tu tập tứ tam muội, nghi thức, văn tự, và
ý nghĩa trong truyền thống mở đầu của Thiên Thai Tông, đọc
Stevenson, The Four Kinds of Samadhi in Early T’ien T’ai Buddhism,
pp. 45-97. Phần tích chi tiết về nội dung nghi thức và nguồn
gốc của tứ tam muội, đọc Stevenson, The T’ien T’ai Four
Forms of Samadhi and Late North-South Dynasties, Sui, and Early Tang Buddhism
Devotionalism.
2
Chan-jan (Trạm Nhiên), T46.182a 12-13, nói: {Mặc dù hành giả
có thể đã phát khởi tâm Bồ Ðề, hành giả cũng rất khó
nói đến ‘địa’ nếu không dấn thân vào thực hành. Vào
vị chân chánh Bồ Tát (Bodhisattvaniyama) là sự khác biệt theo
lối giải thích của Bồ Tát đạo, nơi đó Bồ Tát chứng
đắc Phật tuệ, nhận thọ ký là Phật tương lai, được
bất thối chuyển, và đến được Phật giới. Tùy theo cách
thức của truyền thống Ấn Ðộ hoặc Trung Hoa, trong đường
lối tiệm tiến, hoặc là đi suốt mười địa, hoặc là đến
địa thứ tám. Theo Viên giáo của Thiên Thai Tông, con đường
bị cắt ngang, và chánh chân Bồ Tát kể từ Thập Trụ hoặc
Phần-Chứng-Tức.
3
Vị thứ năm trong ngũ vị hoặc sự chế biến thành chất
đề hồ từ chất sữa. Tỷ dụ được dùng trong kinh Niết
Bàn (T12.530b-532a) để đưa ra tiến trình tinh lọc cốt tủy
của pháp. Trong những chú giải của Trung Hoa, tỷ dụ thường
được hiểu là để diễn tả những phương tiện thuyết
giảng khác nhau được Phật đưa ra trong thời gian thuyết
giáo. Tuy nhiên, ở đây ‘chất đề hồ’ đặc biệt chỉ
cho Phật tuệ hoặc trí tuệ trung đạo liên hệ đến Viên
Giáo. Chan-jan (T46.182a 17-20) trong một chú giải cởi mở hơn
đối với ẩn dụ nầy, đã hợp bốn vị vào các địa của
Viên Giáo: {Từ phàm phu cho đến ngũ phẩm đệ tử vị thì
sánh với sữa tươi. Lục căn [thanh tịnh] thì sánh với kem,
chất bơ, và chất bơ đặc. Sơ trụ thì gọi là đề hồ.
Bất cứ ai khéo tu tập tứ tam muội nên biết rằng [sự thanh
tịnh] lục căn và quả vị sơ trụ có thể chứng đạt từ
đó}. Bản văn Maha Chỉ Quán đã được sửa lại ở đây
dựa theo Chan-jan và những đoạn kinh Niết Bàn.
4
T9.3a 3-4.
5
Các phương pháp vì vậy được phân chia rộng rãi tùy theo
hình tướng sinh hoạt thuận tiện. Các phương pháp ngồi và
đi hầu hết được chọn với mục đích tạo sự thích hợp
với các nghi lễ đặc biệt của Bát-chu tam muội (pratyutpanna),
nhất hạnh, Pháp Hoa tam muội, phương đẳng và Quán Thế Âm
sám pháp, tất cả đều nổi bậc trong giai đoạn [hoằng pháp]
của các tôn giả Huệ Tư và Trí Khải. Ðọc Stevenson, The
Four Kinds of Samadhi in Early T’ien T’ai Buddhism, pp.49-50.
6
Cùng định nghĩa được thấy trong tác phẩm ‘Thích Ma ha
bát nhã ba mật đa kinh giác ý tam muội’ (Shih mo-ho pan-jo p’o-lo-mi
ching chueh-i san-mei, T45.622b19) trước đó của Trí Khải. Chan-jan
(T46. 182a 3-5) nói: {Tâm từ vô thủy vốn từng cong vẹo. Vào
[tam muội] ... tâm được ngay thẳng, chỉ như một con rắn
có thói quen di chuyển ngoằn ngèo, trở nên thẳng tắp khi
bò trong một ống tre}.
7
Ðại Trí Ðộ Luận, T25.110b.
8
Chan-jan (T46.182a 28-b3) nói: {Bốn sự thực tập áp dụng như
cùng khuôn thước đối với nhất pháp giới [và như vậy,
chữ ‘tam-muội’ dùng như một tên gọi tổng quát]. Tuy nhiên,
khi đưa ra những sự khác nhau như ‘thường tọa’ hơặc
‘phi hành phi tọa’ thì các tên nầy được dùng trên căn
bản hoạt động [của thân]. [Hơn nữa], khi người ta phân
biệt chúng theo tên gọi hoặc theo phương pháp thì luôn ngồi
thiền là một hạnh, luôn bước đi, có khi đi có lúc ngồi,
phương đẳng sám hối, chẳng đi chẳng ngồi, tùy ý muốn.
9
Hai tiểu phẩm ‘Văn Thù Sư Lợi Sở Thuyết Bát Nhã Ba la
Mật Ða Kinh’, T no.232; sau đó thì gọi là ‘Văn Thù Vấn
Kinh’ được Trí Khải và Quán Ðảnh trích như kinh căn bản
pháp môn nầy, được Mandrasena dịch sang Hoa ngữ vào đời
nhà Lương, năm 503. Kinh nầy rất phổ thông trong Phạn ngữ
dưới tựa đề ‘Saptasatika-prajna-paramita’. Có thể đọc
bản dịch Anh ngữ: Chang, ed. A Treasury of Mahayana Sutra, pp.100-114.
10
Bản kinh thứ hai, Văn Thù Sư Lợi Vấn Kinh, T no. 468, về sau
gọi là Văn Thù Vấn Kinh, chẳng mang tên bát nhã ba la mật
cũng chẳng gồm trong loại kinh nầy. Trong tác phẩm ‘Quán
tâm luận sớ’, T 46.600b 22-23, Quán Ðảnh không đặc biệt
trích dẩn kinh nầy như nguồn tư liệu đặc biệt về ‘thường
tọa’ hoặc ‘nhất hạnh’ tam muội nhưng thay vào đó đưa
ra ‘nhiều bản kinh Phật. khác nhau.’
Ðoạn
văn chính từ Văn Thù Vấn Kinh (T14.507a) mà Maha Chỉ Quán trích
dẩn về thường tọa tam muội đọc như sau: {Ngài Văn Thù
hỏi Phật: ‘Bằng những phương tiện nào khác một người
có thể đến được tam muội nầy?’. Phật đáp: ‘Với
xấu hổ, ăn năn, lòng tôn kính, và bố thí; ông có thể phụng
sự và nói với người về pháp như bố thí cho một vị Phật.
Ông có thể đến được tam muội bằng bốn phương pháp nầy.
Rồi trong suốt 90 ngày không khởi niệm về ngã. Chỉ ngồi
xuống, dừng niệm, không xen tạp những ý nghĩ khác. Ngoại
trừ lúc ăn uống, đi đứng, và làm những việc làm hằng
ngày, tuyệt đối không vọng [niệm]’.}
11
Nhất hạnh tam muội (i-hsing san-mei) được liệt kê vào thứ
81 trong số 108 tam muội của Ðại Thừa tìm thấy trong Pancavimsati
và Ðại Trí Ðộ Luận (T25.401b20-25). Tuy nhiên, trong hầu hết
luận của Trung Hoa về tam muội (gồm cả Trí Khải) phần
chính trích từ Văn Thù Thuyết Kinh, T8. 731a 26-b8. Phần luận
về ý nghĩa của nhất hạnh tam muội trong Phật giáo Trung
Hoa thời Trung cổ cũng như những tư liệu liên quan đến giới
học giả Nhật Bản về đề tài nầy, đọc Faure, The Concepts
of One Practice Samadhi in Early Ch’an, pp. 99-128.
Trí
Khải thì không nói rõ về ý nghĩa chính xác của hai chữ
‘nhất hạnh’, nhưng Chan-jan (T46.182b3-6) nói: {Sự diễn tả
‘nhất hạnh’ toát yếu từ hoạt dụng chính của thân,
và bỏ qua những liên hệ phụ thuộc hình tướng. Vì vậy,
[hạnh nầy] được gọi là ‘nhất hạnh’. Nó không lấy
cái tên ‘nhất hạnh’ từ sự kiện dùng lý (li) như đối
tượng thiền quán.. Trong số bốn hạnh hoặc thực tập, không
một hạnh nào mà không lấy chân lý làm căn bản hoặc đối
tượng quán chiếu}.
12
Quán tâm luận sớ (T46.600b23-24) dùng lối bố cục chia làm
ba phần để trình bày nội dung của tứ tam muội: sự tướng
(shih-hsiang), quán pháp (kuan-fa), và khuyến tu (ch’uan-hsiu).
Phần sự tướng tiểu mục của Maha Chỉ Quán thuộc về khẩu
và thân; phần quán pháp và khuyến tu thì thuộc về với tâm.
13
Chan-jan (T46.182b8) nói: {Cùng thực hành trong một nhóm có nghĩa
là trong thiền đường (ch’an-t’ang)}.
14
Danh từ ‘tịnh thất’ (ching-shih) có nghĩa là ‘một gian
phòng yên tịnh’ thường được dùng trong những tư liệu
của Lão giáo thời Trung cổ, chỉ cho những phòng hoặc nhà
dành riêng cho các đạo sĩ tế lễ hoặc thiền quán.
15
Pitha, là một chiếc ghế được kết lại bằng dây, được
dùng riêng cho việc ngồi thiền. Kích thước được nói đến
trong những Luật tạng. Ðọc Mochizuki, Bukkyo daijiten, 3.2545d.
16
Liên tục ngồi thiền trong giai đoạn 90 ngày được nói trong
‘Văn Thù Vấn Kinh’, T14.507a. Không có đoạn văn nào như
trên trong ‘Văn Thù thuyết kinh’.
17
Theo Chan-jan, T46.182b16.
18
Tham khảo về chữ ‘xương sườn’ trong câu nầy thấy rõ
rằng Trí Khải đang nói đến thế ngồi trong một chiếc ghế
có lưng dựa (hoặc thành ghế), không phải chỉ là một tấm
đệm hoặc trên bục.
19
Chan-jan, T46.182b18-19, nói: {Hành giả không nên tự cho phép
mình được dựa, ngay cả nằm nghiêng về bên phải, có khác
gì một cái thây chết} có nghĩa là dựa ngữa. Cũng gọi là
‘thế ngồi hớ hênh của người đàn bà dễ dải’}.
20
Cankrama là cách đi chậm rải (thường đi dọc theo đường
thẳng) khoảng giữa các thời ngồi thiền. Thêm vào việc
giúp ích cho những cơn buồn ngủ, trích trong tác phẩm Tứ
Phần Luật (Ssu fen lu), theo Chan-jan, Cankrama có năm lợi ích
(T46.182b22-27): (1) tạo thành khả năng đi được những quảng
đường xa, (2) giúp vào việc quán chiếu, (3) làm giảm bệnh
tật, (4) giúp tiêu hóa, và (5) giúp hành giả trụ trong thiền
định một thời gian khá lâu. Shiki (1.404) phân biệt với những
lối đi nhiễu quanh.
21
Chan-jan, T46.182b28-29, nói: {[Cùng với thiền hành] ăn bữa ăn
và xả thiền cũng được chấp nhận. Nhưng có lẻ hành giả
không lấy cớ để trì trệ hoặc xao lãng chính mình. Một
khi làm xong (qua cơn buồn ngủ hoặc quá bữa ăn) thì không
được làm.
22
Maha Chỉ Quán và Quán Tâm Luận Sớ hoặc các phần tham khảo
khác trước đó về thiền tọa hoặc nhất hạnh tam muội
đều không có phần nói về một vị Phật đặc biệt nào
ở đây. Những chú giải của Chan-jan về đoạn nầy, tuy nhiên,
đưa ra chứng cớ về sự ưa sùng bái Phật A Di Ðà trong cộng
đồng Thiên Thai Tông (T46.182b29-c4): {Phương hướng hành giả
quay mặt về nên là hướng Tây, bởi vì, khi gặp chướng
ngại, phương tiện ích lợi để nhớ nghĩ đến vị Phật
theo phương hướng vị Phật [hành giả] niệm trú ngụ. Các
kinh không nói đặc biệt phải là phương Tây mà [chỉ nói
rằng] khi gặp chướng ngại hành giả nên thanh tịnh xưng
tán hồng danh một vị Phật. Nhưng trong nhiều giáo lý khác,
Phật A Di Ðà là vị Phật được chúng sinh xưng tán nhiều
hơn các vị [Phật] khác. Vì vậy, chúng tôi để hướng Tây
như một tiêu chuẩn}. Luận về pháp môn Tịnh Ðộ trong các
tác phẩm của Trí Khải, và chiều hướng cảm nhận về các
lối tu tập tam muội hướng về bên trong, đọc Ando, Tendai
Chigi no jodokyo, trong tập Tendai shiso-shi của tác giả.
23
Chan-jan (T46.182c20) nói: {Người giữ im lặmg để tu tập nghiêm
túc, người nói ra để vượt qua chướng ngại}.
24
Chan-jan (T46.182c24-26) nói: {Phiền não như biên kiến, ngã kiến
là những chương ngại bên trong. Ma vương và tà mỵ là những
chướng ngại bên ngoài.}
25
Từ ‘Văn Thù Vấn Kinh’, T14.507a. Chan-jan (T46.182c25-26) nói:
{Không làm gì khác hơn là chú tâm cầu Phật, đây là sám
hối. Không ngần ngại hiến cả [thân và tâm] mình là ‘đặt
trọn đời mình vào Phật.’
26
Chan-jan (T46.183a1-2) ‘Ðầy ắp’ có nghĩa là những tâm ý
không diễn đạt. Nổi buồn trỉu nặng hoặc niềm vui vô
cùng giữ trong lòng không nói ra [để vơi đi]. Vì vậy nên
người lấy lời than hoặc câu hát của thân và khẩu để
giải khuây.’
27
Biểu đồ về tác động của khẩu được rút ra từ Ðại
Trí Ðộ Luận, T25.103a. Ở đây nói rằng udana, một trong năm
dưỡng khí trong thân người, vận chuyển từ rún vượt qua
bảy phần trong thân (trên đỉnh đầu, nướu răng, răng, môi,
lưỡi, cổ họng, và ngực) trước khi phát ra từ miệng thành
ngôn ngữ. Ðại Trí Ðộ Luận, khác với Trí Khải, không
đưa ra những phân biệt giữa những tác động của thân và
khẩu. Cái Ðại Trí Ðộ Luận nhấn mạnh là trên ý tưởng
ssỏ dĩ có tiếng và lời qua nhiều nhân duyên, nhưng không
có người thực sự nói, âm thinh dụ cho pháp không chân thực.
28
Chan-jan (T46.182a 12-16) nói: {Mặc dù [Pháp Hoa] Huyền Nghĩa đưa
ra trường hợp hoạt dụng của tâm tạo thành cơ [cảm ứng],
nhưng ở đoạn văn nầy không có nghĩa rằng ‘tâm’ chấp
giữ. Trong trường hợp nầy hành giả phải kíp tu tập các
trợ đạo [thân và khẩu] vì hành giả chưa thể hoàn thành
[việc làm] chỉ trên nền tảng của tâm và tâm ý. Chính bản
kinh thuyết cả tam thừa, nhưng chỗ nầy ‘tâm’ đặc biệt
chỉ cho nghĩa Viên Giáo, và không nói qua đến Thông và Biệt
[Giáo]. Dù vậy, với mục đích dẹp bỏ chướng ngại, hành
giả được dạy tưởng niệm [thân] của vị Phật hiển lộ
sự đáp ứng, dần dần trong phần Chỉ và Quán Tâm, hành
giả được dạy tưởng niệm pháp thân. Như vậy chỗ nầy
hẳn nhiên là thuộc Viên [Giáo]}.
29
Chan-jan (T46.183a 21-25) nói: {Ðọc tụng kinh điển thì không
gồm trong thường-thiền-tọa, nhưng hành giả không nên nghĩ
rằng những điều kiện nầy áp dụng đồng đều đối với
ba tam muội kia. Vì vậy, mặc dù thường-tọa ‘tránh tụng
đọc kinh điển; càng ít được bàn chuyện thế gian’, sự
ngăn cản đọc tụng kinh điển chỉ áp dụng vào lúc nầy.
Cấm nói chuyện vớ vẩn thì áp dụng trong tất cả bốn pháp
[tu tập tam muội]. Như vậy, trong cả bốn tam muội, hành giả
phải bỏ đi tất cả sự giao tiếp với người ngoài. Thiền
hành hoặc thiền tọa đều không có những giới hạn dựa
vào kinh điển. Dù vậy, nó mở rộng [sự thực hành không
giới hạn vào] tất cả căn thức và hành động của thân,
những chuyện nói và việc làm hàng ngày thì không được
khuyến khích}.
30
Chan-jan (T46.183a 25-b5) nói về phần nầy trong ‘Chỉ và Quán
Tâm’ cũng như những phần hổ tương trong các tam muội như
sau: {Trong từng [đề mục thuộc tứ tam muội] từ đây cho
đến ‘chẳng đi chẳng ngồi’ những đoạn văn nói về
quán thì được xếp đặt theo nguyên bản quanh những chất
liệu lấy từ các bản kinh. Mặc dù hình thức có thể tương
tự như mười loại quán tưởng [hệ thống thiền quán được
nói chi tiết trong đại phẩm thứ bảy của Maha Chỉ Quán],
những đoạn văn trong trường hợp nầy được nói ngắn gọn.
Hành giả không thể chỉ dựa vào [những diễn đạt ở đây]
để tu tập quán chiếu trong tất cả mọi khía cạnh. Cũng
như vậy với tất cả [năm đề mục trong phẩm ‘Ðại Ý’],
từ tiểu phẩm ‘Phát Ðại Tâm’ thứ nhất cho đến hết
ba phẩm [cuối] theo sau [đề mục tứ tam muội nầy]. Ðó là
lý do tại sao năm [tiểu] phẩm được gọi là ‘Ðại Ý’}.
{Bản
văn ở đây áp dụng cho những thí dụ tổng quát từ các
kinh [Văn Thù]. Những đoạn văn nầy chính chúng tách biệt
và ý nghĩa thì sâu xa. Chúng không bị phân tích một cách
sai lạc. Nếu có người muốn chú giải chúng một cách đầy
đủ thì phải thấu triệt mười pháp quán theo sau. Chỉ như
vậy thì mới không vướng vào lỗi lầm. Tuy nhiên, nếu có
người áp dụng phần sau bản văn, [phần luận về mười
pháp] sẽ thiếu chi tiết liên quan đến bốn hành [của tứ
tam muội]. Như vậy thì phần nói về mười pháp quán tưởng
chính nó đã được giản lược. Năm tiểu phẩm [của phẩm
Ðại Ý] gọi là ‘giản lược’ bởi vì, với cái nhìn của
thiền quán, chúng được làm ngắn gọn và không đầy đủ.
Nhưng đối với sự (shih) thì không như vậy.}
31
Chan-jan (T46.183b 10-12) ghi nhận nửa câu thứ nhất với ‘Chỉ’,
và nửa câu sau với ‘Quán’.
32
Từ đoạn văn chính về nhất hạnh tam muội trong ‘Văn Thù
Thuyết Kinh’, T8.731a-b. Bốn chữ của dòng nầy và bốn [chữ]
của dòng sau cũng thấy trong đoạn văn chính của ‘Viên Ðốn
Chỉ và Quán’ trong bài tựa của Maha Chỉ Quán. (Ðọc T46.1c24).
Các học giả Nhật có khuynh hướng giữ vững bốn chữ ‘chi
yuan fa-chieh’ như là ‘tức’ (chi) tất cả những đối tượng
tâm thức hoặc duyên (yuan) trong (hoặc với) pháp giới (fa-chieh).
Ðọc Muranaka, p. 112 và Ono, Shishu-zammai no tenkyo to sono kosatsu-jo:
joza-zammai to jogyo-zammai, p. 286. Trong ‘Văn Thù Thuyết Kinh’
cũng như trong những tác phẩm của Trí Khải, chi-yuan chỉ
có nghĩa ‘trụ tâm vào một đối tượng đặc biệt của
thiền quán’. Ðọc Trí Khải, Tiểu Chỉ Quán (Hsiao chih-kuan,
T46.467a 6-8), và Thứ Ðệ Thiền Môn (Tz’u-ti ch’an-men, T46.492a
6-10). Những văn bản hiện nay ở Nhật thì không được hổ
trợ bởi những bản chánh văn hoặc những chú giải của
Chan-jan (T46.183b6 và 151c).
33
Chan-jan (T46.183b14-15) nói trong đoạn văn: {Chỗ nầy giải nghĩa
tịch và chiếu, chỉ và quán đối với người quán tưởng.
Mặc dù hành giả ‘trụ tâm [vào đối tượng]’ hoặc ‘tu
tập chánh niệm’, hành giả cũng không bao giờ rời pháp
giới. Hoặc hành giả tu Chỉ hoặc tu Quán, tịch và chiếu
cùng [có mặt] một cách tròn đầy}.
34
Từ Văn Thù Thuyết Kinh, T8.731c.
35
Cùng chỗ., T8.728b. Chan-jan (T46.183b15-22) nói: {Có lòng tin rằng
tất cả pháp..., khiến hành giả có được tín [tâm]. Hành
giả phải có lòng tin rằng ‘không có trước không có sau’,
bởi vì pháp giới không bị bao quanh bởi ba thời. Sự vật
hoặc thực tại biểu trưng ‘hư không giới’; ‘là trước...,
biểu trưng ‘giả giới’. Vì thể tánh pháp giới luôn thù
thắng, không có lằn mức giả tạm hoặc hư không. Tự chứng
là ‘giác’, dạy người là ‘thuyết’. Người giác và
người thuyết không cách ly pháp giới; vì vậy nên nói ‘không
giác giả, không thuyết giả’. Vượt trên cái thấy nhị
nguyên, pháp giới chẳng hữu cũng chẳng bất hữu. Vì không
thế gian (tức siêu thế gian), nên không có ‘người giác’.
Nhưng vì chẳng phải là trống không, nên không có ‘ không
người giác’. Ðể hợp với chỗ tối cao nầy, chúng ta nói
rằng ‘pháp giới rời tất cả cực đoan’. Nhưng vì ở
giữa và cực đoan [nhị nguyên] tánh vốn đồng, ‘hành giả
trụ ở nơi không có gì ở đó để trụ’. Tất cả chư
Phật đều lấy pháp giới là nơi an trú. Chúng ta sẽ trụ
trong pháp giới như chư Phật trụ trong đó. Vì vậy mà nói
rằng ‘nơi đó hành giả trụ’}.
36
Mười hình dung từ được nói trong ‘Văn Thù Vấn Kinh’,
T14.506c 18-19: (1) Tathagata hoặc Như Lai, (2) A la hán, (3) Chánh
biến tri, (4) Minh hạnh túc, (5) Vô thượng sĩ, (6) Ðiều ngự,
(7) Trượng phu, (8) Thiên nhân sư, (9) Phật, (10) Thế Tôn. Ðôi
khi hiệu thứ mười lại được chia ra làm hai, chữ ‘Thắng
giả’ (jina) được thêm vào.
Chan-jan
(T46.183b28-c21) nói: {Chỉ quán pháp giới, mười Phật hiệu
diễn tả ứng thân được thấy tương ưng với chính pháp
giới. Từ đó hành giả biết được rằng mười hiệu của
Như Lai cũng liên hệ đến pháp thân. [Liên hệ] như thế nào?
[Phật] được gọi là Như Lai vì Phật phù hợp với chân
cảnh giới khách quan qua [cái dụng của] trí tuệ bất nhị
của Ngài... Mười hiệu của ứng thân và pháp thân thì cùng
một thể, bất nhị.}
37
Tathagata hoặc Như Lai là hiệu thứ nhất trong mười hiệu.
Chan-jan (T46.183c19) nói: {Pháp thân đã nói ở trên được diễn
tả trong đoạn văn thứ nhất dụng như đối tượng ở đây}.
38
Cả đoạn văn ở đây căn cứ vào ‘Văn Thù Thuyết Kinh’,
T8.728a. Chan-jan (T46.183c17-21) chú giải: {[Ðoạn văn] từ ‘quán
Như Lai’ giải thích đối tượng [của trí tuệ] và cái trí
[quán tưởng] thì không phải là hai điều riêng biệt. Pháp
thân đã nói đến ở phần mở đầu đoạn văn trên là như
đối tượng [muốn nói] ở đây. Làm sao chúng ta có thể biết
được rằng chính đối tượng [của trí tuệ] đến từ cái
trí làm việc quán tưởng?. Vì chỗ khởi đầu nói rằng:
‘hành giả không nghĩ đến Như Lai [là Như Lai]’. ‘Không
nghĩ đến’ chính nó là trí tuệ biết được [pháp là] bất
khả đắc. Câu ‘không có [Như Lai]’ nói rằng đối tượng
quán tưởng là vô tướng. Câu ‘chẳng có bất cứ trí tuệ
từ đó Như Lai Tạng được biết’ cho thấy trí tuệ là
vô tướng. Câu từ ‘Như Lai và trí tuệ’ nói rõ rằng trí
tuệ và đối tượng của trí tuệ không phải là hai.}Kogi
(1.415) nói: {Vì nếu cảnh giới đối tượng bị bôi xóa thì
cảnh giới chủ thể cũng phải tan biến giống như vậy...
Vì là bất hữu nên là đồng nhất.}
39
Văn Thù Thuyết Kinh, T8.726b. Chan-jan (T46.183c22-184a1) chú giải:
{Trí tuệ và đối tượng của trí tuệ là một thực tại
huyền nhiệm, là ý nghĩa của câu ‘không có tướng nhị
nguyên’. Trí tuệ và đối tượng của nó thể tánh hoàn
toàn thâm nhập vào nhau là ý nghĩa của câu ‘không có tướng
động’. Trí tuệ và đối tượng của nó vốn như vậy là
ý nghĩa của câu ‘không có tướng sinh’. Chúng hội nhập
vào nhau khắp nơi mà không có tướng thâm nhập là ý nghĩa
của câu ‘không định vị trong bất cứ phương hướng’.
Bởi vì dù rằng vô tướng, chúng thực sự hội nhập khắp
nơi, chúng được mô tả là ‘không rời tất cả phương
hướng’. Vì không thế gian, không tập tục, chúng ‘không
từ ba thời’. Nhưng cũng vì chúng không nằm ở ngoài thế
giới giả tạm, chúng được mô tả là ‘không tách biệt
ba thời’. Trung [đạo] là nơi hai cực đoan đồng thời bị
diệt được nói trong câu ‘không tướng nhị nguyên’. Trung
[đạo] là nơi [hai cực đoan] đồng thời chiếu soi được
nói trong câu ‘không rời nhị nguyên’. ‘Không ô nhiễm’
có nghĩa rằng chúng không pha trộn với mê muội. ‘Không
tịnh’ có nghĩa rằng chúng chẳng pha trộn với trí tuệ.
Câu văn [bắt đầu với] ‘sự quán nầy’ gồm những tán
tụng về trí tuệ quán chiếu. ‘Rất là ít được’ có
nghĩa rất hiếm có và độc đáo. ‘Giống như hư không’
vì thâm nhập khắp nơi nhưng cũng tịch diệt. ‘Không hư
hoại’ vì không dựa vào sự nối tiếp. Vì đến được
chỗ hòa hợp [trí tuệ và đối tượng của trí tuệ], nó
‘làm tăng trưởng chánh niệm’.}
40
Nguyên đoạn văn căn cứ vào ‘Văn Thù Vấn Kinh’, T14.506c-507a.
Chan-jan (T46.184a 2-5) nói: {Khi sự quán chiếu hoàn toàn thành
công, hành giả sẽ thấy được Phật. Qua sự quán chiếu,
hành giả thấy được ứng thân Phật. Dù rằng đó không
phải là mục đích hoặc mẫu mực của sự tu tập, nhưng
năng lực quán chiếu đưa đến [kết quả] như vậy. Vì lý
do nầy, cái mà hành giả tiếp nhận được thì giống như
bóng trong gương. Không dùng đến thần thông để hội nhập,
hành giả thấy khắp mười phương. Trụ trong pháp giới, hành
giả có thể thấy tất cả chư Phật.}
41
Chan-jan (T46. 184a6-7) nói: {Qua lực đại bi hành giả thấy tướng,
trong khi qua lực đại trí hành giả không chấp giữ chúng.
Niết Bàn và hai đại trang nghiêm cũng được xem như vậy.
42
Hai đại trang nghiêm mà Bồ Tát viên thành để thành Phật
đạo- trang nghiêm hoặc tích tụ công đức (punya-sambhara) và
trang nghiêm hoặc tích tụ trí tuệ (jnana-sambraha).
43
Từ ‘Văn Thù Thuyết Kinh’, T8.726b.
44
Chan-jan (T46. 184a 11-13) nói: {Tánh là thể (t’i), tướng là
hình dáng bên ngoài (wai-piao) của pháp. Mặc dù hành giả thấy
được Như Lai và nghe được pháp thuyết ra, hành giả biết
rằng nghĩa chân thực của pháp không có sự thấy và nghe
v.v... }.
45
Theo bản văn của Chan-jan (T46.184a 12-16): { Chính Phật biết
rằng không có sự chứng hoặc đắc pháp. Làm thế nào hành
giả lại có thể nói đến những sự chứng đắc như vậy?
Những câu văn theo sau giải thích những thí dụ đã đưa ra
ở trên: điều Phật chứng ngộ là nhất chân pháp giới.
Pháp giới biết không chứng không đắc. Vì chứng liên quan
đến việc nắm giữa kết quả; đắc liên quan đến việc
bám sát hoặc trụ trong một pháp, cả hai đều không thể
được. Ðó là lý do tại sao bản văn nói ‘không có gì’.}
46
Văn Thù Thuyết Kinh, T8.728b.
47
Chan-jan (T46.189a19-21) nói: {Không có sự chia cách hoặc phân
biệt giữa chúng sinh và Phật, cũng không có bất cứ sự
khác biệt trong cảnh giới [chúng sinh và cảnh giới Phật].
Vì [cả hai] viên đồng về lý (li) và cũng viên đồng về
tánh. Hành giả không nên tự làm [cả hai] ngăn ngại nhau bằng
[cái nhìn] bám chặt vào sự phân chia hình tướng.}
48
Văn Thù Thuyết Kinh, T8.726c. Chan-jan (T46.184a 25-28) nói: {Trong
sự giải thích về sự ‘tương đồng’ của chư Phật và
chúng sinh, điểm chính yếu là hành giả nên quán chúng sinh
‘đồng’ hoặc ‘như’ Phật. Vì bản thể của cái ‘đồng’
nầy không có những tướng phân biệt, đồng như hư không
rộng mở. Mặc dù đồng hư không- trí tuệ chính nó như hư
không- biết cảnh giới đối tượng, cảnh giới đó giống
như hư không. Vì vậy mà nói rằng ‘hành giả trú trong bát
nhã với tánh đức của pháp vô trụ’.}
49
Chan-jan (T46. 184a28-29) nói: {Vì chúng sinh đồng với Phật,
không có phàm để thoát ra. Vì Phật đồng với chúng sinh,
không có thánh để chứng đắc.}
50
Văn Thù Thuyết Kinh, T8.727a. Theo Chan-jan, chỗ nầy diễn đạt
‘Vô Tác Tứ Ðế’ (T46.184a29-b2): {Trong Vô Tác Tứ Ðế,
không có gì để lấy, không có gì để bỏ. ‘Chẳng lấy
chẳng bỏ’ mà an trụ trong chân lý.}
51
Chan-jan (T46.184b4-8) khó nhọc tìm kiếm, sắp đặt câu văn
trong hai dấu ngoặc với tam đế: {Hành viên tịnh là những
cái hành [được hiểu từ cái thấy của] Chân đế. Hành
mà không hành là những cái hành của Giả đế. ‘Không [có
pháp] sinh tử...’ chỉ cho cái hành của Trung đạo.} Kogi (1.423)
cố gắng đặt ‘hành vô hành’ vào Giả hơn là nói rằng
những cái hành nầy đến với sự vật một cách tạm bợ-
vì ‘sự’ rơi vào ‘giả’ nên chỗ nầy thích hợp với
Giả đế.
52
Chan-jan (T46.184b5-7) nói: {Không bỏ tà kiến biểu thị Giả;
chẳng xa vô-vi biểu thị Không; tu đạo Bồ Ðề trong đường
lối như thế đó biểu thị Trung đạo.}
53
Văn Thù Thuyết Kinh, T8730a.
54
Năm ác nghiệp (panca anantaryani-karmani) trong Phật giáo được
biết là năm nghiệp tái sinh vào cõi địa ngục vô gián. Năm
ác nghiệp nầy gồm có: giết vị A la hán, giết cha mẹ, phá
hoại sự hòa hợp của tăng đoàn, và làm thân Phật chảy
máu.
55
Chan-jan (T46. 184b23-24) nói: {Cả hai bất nhị bởi vì ác nghiệp
và Bồ Ðề không hề ly khai bản tánh của tâm.}
56
Văn Thù Thuyết Kinh, T8.728c. {Chữ ‘thấy’ được dùng vì
hành giả chứng được tánh của tâm. Vì không có ‘người
thấy hoặc sự thấy’ [thực tại nầy], chúng ta nói rằng
‘không người thấy biết’. Gọi là ‘thấy’ với nghĩa
đối diện với đối tượng. ‘Biết’ có nghĩa thấu triệt
từ bên trong. Thấy và Biết đồng thể và không khác nghĩa.
‘Không người phân biệt’ có nghĩa sự vắng bặt của chủ
thể dấy niệm phân biệt trong và ngoài. Lại nữa, nhận ra
tánh của năm tội vô gián là ‘thấy’; chiếu soi Bồ Ðề
là ‘biết’; và biết hai pháp nầy là ‘phân biệt’.
57
Cùng chỗ. T8.728b.
58
Gồm có: (1) Ma Ba Tuần (Machesvara Mara) hoặc ma vương cõi Dục,
(2) ma ô nhiễm, (3) ma ngũ uẩn, và (4) ma chết. Ðọc Ðại
Trí Ðộ Luận, T25.99b. Cùng với bốn loài ma là những yếu
tố gây hư hoại thiện pháp của thế gian.
59
Văn Thù Thuyết Kinh, T8.732c.
60
Chan-jan (Trạm Nhiên) dùng dấu hiệu nầy như ‘dấu ấn của
pháp giới’ để đưa ra nhiều nhận xét hy hữu về chỗ
đứng của quyển ‘Văn Thù Thuyết Kinh’ trong sự phát sinh
của Thiền Tông Trung Hoa, đặc biệt phát triển từ Thiền
Ðông Ðộ đến phương Nam (sông Dương Tử) sang đến các
tông phái phương Bắc (thủ đô và lưu vực sông Hoàng). Chan-jan
(T46.184c11-13) nói: {Vì đó là dấu ấn của pháp giới, Thiền
sư Ðạo Tâm (Tao-hsin) vẫn dùng kinh nầy như tâm yếu (hsin-yao).
Người đời sau theo dấu tiền bối của họ nhưng mỗi người
giải thích mỗi khác. Ðiều nầy mang lại những sự tương
phản giữa tông (tsung) của Thiền ngoài sông Dương Tử, trong
đô thị và vùng sông Hoàng.
61
Văn Thù Thuyết Kinh, T8727b.
62
Tăng, ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ.
63
Ðoạn văn nầy gợi lại vị thứ nhất trong ‘Ngũ Phẩm Ðệ
Tử Vị’ thuộc Viên Giáo, tức ‘Tùy Hỉ Phẩm’.
64
Ðoạn kinh pha lẩn dẩn chứng từ ‘Văn Thù Thuyết Kinh’,
T8.730a-b.
65
Chan-jan (T46.184c21-24) chú giải: {‘Tòa’ mô tả rằng trên
đó [Phật] dựa vào. Phật dựa vào chân lý. Bản văn nói:
‘đến gần tòa’ vì hành giả nghe pháp ầy tiến về chân
lý. Phật là bậc giác ngộ, pháp là cái đưa đến giác ngộ.
Ðền gần chỗ Phật đã giác ngộ tức ‘đến gần tòa của
Phật’.}
66
Chan-jan (T46.184c26-27) nói: {nghe pháp nầy mà không rúng động
tức thấy được pháp thân Phật.}
67
Văn Thù Thuyết Kinh, T8.727c-728a. Chan-jan (T46. 184c27-29) nói:
{Nếu hành giả chứng được sơ trụ và thấy được pháp
thân Phật thì đây là tướng niệm bất thoái chuyển. Nếu
hành giả chứng được lục căn thanh tịnh và đắc được
cái thấy tương tự như [pháp thân] Phật, đây là bất thoái
đối với vị và hành. Khi ba loại bất thoái chuyển nầy
[được chứng đắc], tất cả đều viên mãn. Ðây gọi là
‘đáo bỉ ngạn’ (paramita).}
68
Tiếng sư tử hống (simha-nada) của Phật.
69
Có hai bản khác nhau về ‘thập lực’ (dasa-bala) có thể
tìm thấy trong các tác phẩm Phật giáo. Bản xưa hơn trong
kinh A Hàm và các kinh Ðại Thừa, và bản mới hơn thì đặc
biệt ở các kinh Ðại Thừa. Như bằng chứng từ những tác
phẩm khác của Trí Khải như ‘Pháp Giới Thứ Ðệ Sơ Môn’
(T46.665a); ‘Thứ Ðệ Thiền Môn’ (T46.481b), Trí Khải thường
dùng Ðại Trí Ðộ Luận để dẩn chứng kinh điển Ðại
Thừa. Như vậy, ‘Pháp Giới Thứ Ðệ Sơ Môn’ (T46.694a-c)
trích dẩn Ðại Trí Ðộ Luận (T25.235c-236a), đưa ra nhiều
minh chứng có trước về ‘thập lực’: (1) Tri giác xứ phi
xứ trí lực, (2) Tri tam thế nghiệp báo trí lực, (3) Tri chư
thiên giải thoát tam muội trí lực, (4) Tri chúng sinh tâm tánh
trí lực, (5) Tri chủng chủng giải trí lực, (6) Tri chủng
chủng giới trí lực, (7) Tri nhất thiết chí sở đạo trí
lực, (8) Tri thiên nhãn vô ngại trí lực, (9) Tri túc mạng
vô lậu trí lực, và (10) Tri vĩnh đoạn tập khí trí lực.
70
Tứ Vô Úy (vaisaradya) của Phật. Theo tác phẩm ‘Pháp Giới
Thứ Ðệ Sơ Môn’ (T46.694c) của Trí Khải và Ðại Trí Ðộ
Luận (T25.235c-236a), gồm có: (1) Chánh đẳng giác vô úy, (2)
Lậu vĩnh tận vô úy, (3) Thuyết chướng pháp vô úy, và (4)
Thuyết xuất đạo vô úy.
71
Văn Thù Thuyết Kinh, T8.730c-731b.
72
Cùng chỗ, T8.731b.
73
Cùng chỗ, T8.731c.
74
Các bản mục lục có trước nói đến Trí Khải với cẩm
nang Bát Chu Tam Muội (Pratyutpana Samadhi) có tên là ‘Bát Chu
Chứng Tướng Hành Pháp’ (Pan-chou cheng-hsiang hsing-fa) không
còn lưu lại; đọc Tao-hsuan, Ta Tang nei-tien lu, T55, 284b, và
Sato, Tendai, daishi no kenkyu, pp.78-81.
75
Tựa đề kinh tiếng Phạn là ‘Pratyutpana-buddha-sammukha-vasthita-samadhi
Sutra’. Bản Hoa ngữ Trí Khải dùng dịch lại tựa đề là
‘Bát Chu Tam Muội Kinh’. Tên của tam muội thường nói trong
các bản văn Hoa ngữ là ‘Chư Phật hiện tiền tam muội’.
Ðọc Thập Trụ Tỳ Bà Sa luận (Shih-chu pi-p’o-sha lun), T26.68c17-18.
Thêm chi tiết về tam muội nầy và ý nghĩa đối với Phật
giáo Ðại Thừa, đọc Lamotte, Traite, 5.2263-2272.
Bát
Chu Tam Muội Kinh cũng được biết với tựa đề ‘Hiền Hộ
Bồ Tát Kinh’ (Bhadrapala-bodhisattva Sutra) sau phần đối thoại
chính. Bốn bản dịch Hoa ngữ (từ thế kỷ thứ 2 đến thế
kỷ thứ 6) còn lưu lại đến ngày nay có những hiệu đính
khác nhau dài từ một đến năm tập sách nhỏ. Trí Khải dựa
vào ba tập Bát Chu Tam Muội Kinh (T no. 418) được ngài Chi Lâu
Ca Sấm (Lokaksema) dịch vào năm 179. Phần luận rất giá trị
về phẩm và lượng của những bản dịch Hoa ngữ cũng như
những bản dịch qua văn tự Tây Tạng, đọc Harrison, The Samadhi
of Direct Encounter with the Buddha of the Present.
76
Theo Bát Chu Tam Muội Kinh, T13.905c, ba yếu tố nầy có cái dụng
đưa đến sự hiện tướng một vị Phật, hoặc chư Phật
trước hành giả. Chan-jan (T46.185a28-29) nói: {Với sự hòa hợp
của [chánh] nhân và duyên ở đó liền có cảm ứng đạo
giao (kan-ying tao-chiao). Vì lý do nầy hành giả phải có đủ
ba lực.}
77
Bát Chu Tam Muội Kinh, T13.905a.
78
Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận, T26.88b13-14 (từ đây dùng để chỉ
bản Phạn ngữ tựa đề Dasabhumika-vibhasa Sastra). (Mặc dù
được lưu hành như một bản kinh độc lập, về sau hợp
vào một phần trong kinh Hoa Nghiêm, làm phong phú bản kinh Thập
Trụ rất phổ thông, và các luận Ấn Ðộ ở Trung Hoa).
Tụng
đọc và luận về đặc tính của Bát Chu Tam Muội Kinh xuất
hiện trong phẩm thứ hai mươi lăm của Thập Ðịa tỳ bà
sa luận trong phần thực hành hổ trợ cho niệm Phật tam muội
(T26.86a-88c). Phẩm nầy, cùng với hai mục trước trong Niệm
Phật (T26. 68c-71c) và Bốn Mươi Bất Cộng Pháp Của Phật
(T26.71c-83c) Trí Khải dùng như mặt thứ hai trong việc tu tập
Bát Chu Tam Muội.
79
Những lực được nói đến ở đây không giống như ba lực
nói trong Bát Chu Tam Muội Kinh ở trên. Chúng tượng trưng ba
mức độ dõng mãnh liên quan (1) Quán 32 tướng và 80 vẻ đẹp
của Phật, (2) Quán pháp thân qua hình tướng 40 tánh đức
bất cộng của Phật, và (3) Quán Phật chính là thực tại
vô nhiễm. Ðọc Thập Ðịa tỳ bà sa luận, T26.86a 7-19.
80
Ðoạn văn nầy lấy trực tiếp từ bài kệ trong Thập Ðịa
tỳ bà sa luận, ghi chú số 78. Ðọc cùng chỗ, T26.88b16-20.
81
Từ ‘Bát Chu Tam Muội Kinh’, T13.904b-c., giản lược khá nhiều.
Chan-jan (T46.185b22-23) giải thích: {Vì những thân nhân đến
từ quê nhà thường mang theo những phức tạp, hành giả không
nên gần họ.}
82
Bát Chu Tam Muội Kinh, T13.909c.
83
Cùng chỗ, T13.909c và 916c. Chan-jan (Trạm Nhiên) trích những
kinh điển khác nhau, đưa ra một bình luận về những ưu điểm
trong việc khất thực, khi nhận biệt thỉnh hoặc cùng dùng
bữa chung với tăng đoàn: {Bởi vì tâm [trong tình huống về
sau này] thường tán loạn, mơ hồ và xa đạo}, tôn giả khuyên
{hành giả nên khất thực}(T46.185c17-18). Tuy nhiên, những chỗ
rải rác trong tác phẩm Maha Chỉ Quán T46.42a-b), Trí Khải phân
biệt ba phương tiện nuôi thân thích hợp trong việc tu định
(tùy thuận môi trường chung quanh): (1) lượm hoa trái... nếu
hành giả tu trên non vắng hoặc tận rừng sâu, (2) xin thức
bố thí nếu hành giả tu tập hạnh đầu đà (dhuta) quanh xóm
làng, và (3) thọ nhận sự cúng dường từ tín chủ hoặc
những giúp đỡ từ bên ngoài nếu hành giả tu tập trong căn
phòng riêng biệt trong một đạo tràng. Rõ ràng rằng ‘sự
giúp đỡ từ bên ngoài’ là một sự ám chỉ pháp môn Bát
Chu Tam Muội của Trí Khải.
84
Theo tập ‘Quán Tâm Luận Sớ’ (Kuan-hsin lun shu, T46.601b15-16)
của Quán Ðảnh (Kuan-ting), tôn giả nói rõ ‘những vật thực
cúng dường, hương hoa’. Chữ ‘hsiao’ ở đây là những
vật thực chuẩn bị theo truyền thống chỉ cho những thức
ăn nấu chín như thịt, cá dành cho khách. Chan-jan (T46.185c20-21)
lấy hai chữ kép ‘hsiang-hsiao’ để chỉ những ‘phẩm vật
thanh tịnh’. Tôn giả diễn tả chữ ‘hsiao-ts’ai’ là món
rau nấu chín... không có loại cốc}. Cho thấy rõ rằng không
dùng thịt cá cúng dường.
85
Ðặc biệt rửa tay và mặt, theo Chan-jan (T46. 185c21-22).
86
Tôn giả Quán Ðảnh ghi chú trong ‘Quán Tâm luận sớ’ (T46.601b16-17):
{Khi ra thì bên trái và vào thì bên phải, thay đổi áo quần
tùy thời.}
87
Quán Ðảnh giải thích trong ‘Quán Tâm luận sớ’ (T46.601b17):
{hành giả chỉ nên đi nhiễu quanh, và không làm các động
tác khác [như đứng im, ngồi, hoặc dựa ngữa]}
88
Chan-jan (T46.185c23-25) nói: {Giới thuộc thân và khẩu là bên
ngoài; giới thuộc tâm là bên trong. Cả hai Tiểu Thừa và
Ðại Thừa đều giữ tâm giới, gồm những vi phạm của [25]
phương tiện thiện xảo về [tu định] cũng như ba trong mười
thiện hạnh và tà hạnh ... [Giới luật Tiểu Thừa] cũng được
nhìn như ‘bên ngoài’, và [giới luật Ðại Thừa] được
nhìn như ‘bên trong’. Nếu có người chỉ giữ giới trong
lối hành xử, và không biết gì về [dấu hiệu] chướng ngại
hoặc khó khăn [trong việc tu tập], thì người ấy không đáng
đứng vào chỗ đứng của một bậc thầy.} Phần tham khảo
chi tiết về nội và ngoại, đọc Trí Khải, Phương Ðẳng
Tam Muội Hành Pháp, T46.947b7.
89
Bát Chu Tam Muội Kinh, T13.909c.
90
Sau cùng, Trạm Nhiên (Chan-jan) dẩn chứng cả hai ‘Thập Ðịa
Tỳ Bà Sa Luận’ (T26.115c-116a) và Ðại Trí Ðộ Luận (T25.414b-c)
về những vấn đề hy hữu trong tình trò đối với thầy
không bằng đối với đạo tối thượng. Cả hai bản văn
đều cùng một ý rằng một vị thầy nên được kính trọng
dù cho phạm lỗi lầm gì đi nữa, chỉ vì để diệt cái ngã
mạn của học trò mà không phải vì lý do nào khác. Chan-jan
(T46.186a12-16 ) trích bản văn sau, nói: {Ðừng nên chăm chăm
vào cái thiện và dẫy nẩy [khi thấy] cái ác chỉ vì chấp
vào cái giả tạm của thế gian. Nếu một vị thầy có thể
thuyết về trí tuệ thì nên hết lòng cung kính người ấy,
và đừng nghĩ đến những lỗi lầm khác của thầy. Ðừng
quăng bỏ cả vàng vì cái túi đựng vàng hôi hám. Nếu một
người xấu ác đang đi trên con đường nguy hiểm trong đêm
tối với ngọn đèn trên tay, các ông sẽ không từ chối [nhận
lấy] ánh sáng chỉ vì người giữ ngọn đèn là một người
không tốt. Bồ Tát cũng giống như vậy. Bồ Tát đến vì
ánh sáng trí tuệ và không nhìn những khiếm khuyết khác.}
91
‘Những người giúp đỡ bên ngoài’ (wai-hu) chỉ cho những
cư sĩ hoặc các người trong tăng đoàn đáp ứng nhu cầu của
người [cách biệt] bên trong. Những người đồng hành là
những người cùng tu tập. Thêm chi tiết về những tên gọi
nầy, đọc Maha Chỉ Quán (T46.43a-b), và Quán Tâm Luận Sớ
(T46.605b22-29). Ở đây chúng tôi dò theo ý nghĩa mà Quán Ðảnh
đã đưa ra trong một đoạn văn song song từ Quán Tâm Luận
Sớ (T46.601b20-22): {Hành giả phải cần có người giúp đỡ
từ bên ngoài, là những người kiên nhẩn cung cấp thức ăn
uống, giống như mẹ lo lắng cho con trẻ. Hành giả cũng nên
có những người bạn đồng hành có tư cách và giới hạnh
vững vàng, là những người cùng đi trên một đoạn đường
nguy hiểm.}
Chan-jan
(T46.186b2-3) nói: {Những người giúp đỡ từ bên ngoài giống
như những người mẹ... Họ sẽ không để cho hành giả quá
đói hoặc quá no, nhưng chỉ săn sóc đúng với tình thương
và sự nghiêm túc. [Ðoạn văn nói về] ‘những người đồng
hành là những người cùng đi trên một đoạn đường nguy
hiểm’ có nghĩa rằng nếu một người mất dấu, tất cả
sẽ bị hại. Những người đồng hành nên như vậy mà [đến
với] đạo.
92
Bốn điều trong câu văn nầy là bốn điều đầu tiên nói
trong phẩm thứ ba của Bát Chu Tam Muội Kinh, có tựa đề ‘Tứ
Hạnh’. Cả bốn đều đưa ra những điều kiện thiết yếu
giúp Bồ Tát tiến nhanh trên đường đạt đến tam muội nầy
(T13.906a). [Bốn điều nầy] cũng được ghi lại trong ‘Thập
Ðịa Tỳ Bà Sa Luận’ (T26.86b-c). Về phần phiên dịch tiếng
Tây Tạng, đọc Harrison, The Samadhi of Direct Encounter with the
Buddhas of the Present Age, pp.45-46.
93
Ba-tập trong Bát Chu Tam Muội Kinh (T13.906a) có cùng lối diễn
tả như Maha Chỉ Quán ở đây ‘nằm hoặc rời chỗ’. Tuy
nhiên, tập-một cũng như trong Thập Ðịa Tỳ Bà Sa Luận (T26.86c)
lại nói ‘ngủ’ hoặc ‘buồn ngủ’. Bản văn tiếng Tây
Tạng hợp với hai bản văn sau: ‘không uể oải hoặc bần
thần’. Chúng tôi theo bản của Chan-jan (T46.186b11-12) nên ghi
lại ở đây là ‘không rời chỗ hoặc nằm xuống’.
94
Như đã nói ở trên, hai chữ ‘kinh hành’ (ching-hsing) lấy
từ chữ Phạn là cankrama có nghĩa là thực tập trong tĩnh
lặng bước đi chầm chậm theo đường thẳng. [Trong các tác
phẩm của Thiên Thai Tông và Tịnh Ðộ Tông] ở Trung Hoa, các
chữ hsuan-jao và hsing-tao được dùng chuyển đổi để diễn
tả cách đi nhiễu quanh (pradaksina) tòa thờ Phật hoặc thánh
tích. Mặc dù bản có trước bằng tiếng Phạn ở đây dùng
chữ kinh hành (theo bản Tây Tạng), Trí Khải và các nhà nghiên
cứu về Bát Chu Tam Muội Trung Hoa thời Trung cổ xác quyết
lối đi nhiễu quanh tòa thờ Phật A Di Ðà. Ðọc Maha Chỉ
Quán, T46.12b5; Quán Tâm Luận Sớ, T46.601b17). Chúng tôi theo
[bản văn] của Chan-jan ở đây (T46.186b19-20), là người ghi
lại những khác nhau giữa ‘Thập Ðịa Tỳ Bà Sa’ và các
kinh, cho rằng câu kinh ‘ngoại trừ khi xả [thiền], ăn uống,
ngồi và đứng dậy’ thuộc về điều thứ ba trong bốn điều
nầy.
95
Ðây là bộ thứ hai trong bốn điều nói trong phẩm ba của
tập-ba Bát Chu Tam Muội Kinh (T13.906a 17-20). Trí Khải không
nói đến hai cặp thứ ba và thứ tư, có thể là vì chúng
còn xa trong chu kỳ 90 ngày hơn là hai cặp nói ở đây.
96
T26.86b17-25. Ở đây, chúng tôi theo Chan-jan (T46.186b20-23) là
người đã nhìn cả bốn phần riêng biệt. Muranaka (pp.120-121)
hẳn là theo những bài kệ chú giải của ‘Thập Ðịa Tỳ
Bà Sa Luận’ (T26.86b), nói về bài kệ một cách hữu vi: {Nếu
anh trở thành bạn thân của thiện tri thức, và không hối
tiếc, thì trí tuệ của anh sẽ trở nên sắc bén, đức tin
của anh sẽ trở nên vững vàng}.’ Chan-jan (T46.186b10-11) nói
về một vị thầy tốt như sau: {‘Tốt’ trong trường hợp
nầy có nghĩa là khéo biết được những dấu hiệu của vực
sâu và hướng đi về chỗ [thành tựu] tam muội.}
97
Chan-jan (T46.186b24-26) giải thích: {Ðoạn văn bắt đầu từ
’90 ngày’ cho đến ‘tâm niệm Phật A Di Ðà không dừng
nghỉ’ chỉ dẩn [hành giả] áp dụng ba nghiệp [thân, khẩu,
ý]. Mặc dù nói rằng trước hoặc sau, hoặc xưng tán và nhớ
tưởng cùng lúc, từng giây phút phải làm không dừng nghỉ.}
98
Bát Chu Tam Muội Kinh, T13.905a. Trong bản kinh, tên quốc độ
Phật thì hằng hà sa số. Không thấy nói đến làm bằng châu
ngọc.
99
T13.905a-8. Những bản kinh ở đây đặc biệt đưa ra một giai
đoạn thực hành bảy ngày, nhưng một chu kỳ ba tháng cũng
được nói trong bốn quy luật phụ thuộc từ phẩm 3 trong
kinh Bát Chu Tam Muội.
100
Ẩn tướng trên đảnh của Phật. Gọi là ‘ẩn’ vì chúng
sinh mê mờ trong ba cõi không thể thấy được, nhưng chư thánh
thì có thể. Ðó là một trong 80 tướng hảo của Phật. Tham
khảo về ẩn tướng cũng như những phát nguyện trong đoạn
văn nầy là từ Bát Chu Tam Muội Kinh, T13.905b. Phương pháp
nhớ tưởng tướng hảo của Phật theo hai chiều thuận và
nghịch không có trong Bát Chu Tam Muội Kinh, nhưng trong bản
kinh rất phổ thông là Quán Phật Tam Muội Hải Kinh (Kuan-fo
san-mei hai ching) (T15.648c13-116) được ngài Giác Hiền (Buddhabhadra)
giới thiệu vào đầu thế kỷ thứ V. Cũng vậy, Bát Chu Tam
Muội Kinh không nói về 32 tướng hảo và 80 vẻ đẹp [của
Phật], nhưng hai bản văn Quán Phật Tam Muội Hải (T15.648c-668b)
và Thập Ðịa (T26.68c-70c) thì nói chi tiết.
101
Ðoạn văn kinh từ Bát Chu Tam Muội (T13.908b). Bản văn Tây
Tạng có khái niệm về ‘đắc tam bồ đề’ (sambodhi) hoặc
‘giác ngộ viên mãn của Phật’ chính là đối tượng phản
ảnh ở đây. Ðọc Harrison, The Samadhi of Direct Encounter with
the Buddhas of the Present Age, pp.68-69. Nhưng các bản văn kinh Trung
Hoa thì dùng chữ Phật (fo) hơn là chữ Bồ Ðề, tạo nên
hai nghĩa trong đoạn văn. Không rõ ràng khi đọc Ðức Phật
(te-fo) là vị Phật hoặc là tánh đức Bồ Ðề trong quán
chiếu và tam muội, hoặc là khái niệm về chứng đắc tam
Bồ Ðề. Chúng tôi đi theo Chan-jan là người đọc đoạn văn
một cách thấu suốt như tranh biện về những hình ảnh được
hiểu về Phật và Phật giới.
Chan-jan
(T46.186c19-21) giải thích: {Phần thứ nhất của đoạn văn
phân tích [mối tương giao giữa] thân và tâm của [tánh đức]
Phật [như được biết trong] tam muội. Qua những bảo hộ
của ai mà thân và tâm nầy của Phật có thể được thấy
hiểu?. Hai dòng đầu tiên đưa ra sự phân tích chính. Câu
văn bắt đầu với: ‘Phật không thể được thấy bằng’...
có sự phân định nhận ra rằng tâm người và Phật cả hai
bất khả đắc. Làm cách nào tôi có thể thấy biết được
thân và tâm của Phật qua thân và tâm của riêng tôi? Ðiều
nầy lấy ra từ tứ cú, rằng ‘Bồ Ðề không thể đạt
đến hoặc thấy biết qua tâm’ có nghĩa rằng tôi không thể
hiểu được tâm nầy của Phật qua tâm tôi; ‘không chứng
và không đắc qua thân’ có nghĩa là tôi không thể đắc
được thân Phật qua thân tôi. [Những câu] ‘không thấy hiểu
hình tướng của Phật qua tâm...’ đảo ngược thứ tự.
Chữ ‘của tôi’ ở đây bị lướt đi.}
Kogi
(1.444) ghi chú: {Cái thấy [Phật] nầy chỉ được giải thích
trên căn bản của thức. Ðó là để nói rằng, đối tượng
chính là tâm.}
102
Ðó là thọ, tưởng, và hành.
103
Từ Bát Chu Tam Muội Kinh, T13.908c.
104
Ðoạn văn từ Bát Chu Tam Muội Kinh, T13.908c. Chan-jan (T46. 186c21-25)
giải thích: {Thân [sắc tướng] và tâm Phật thì không có
tướng, hoàn toàn bất khả đắc. Thân và tâm của tôi cũng
giống như vậy. Thân và khẩu biểu thị tướng thân. Trí
tuệ biểu thị tâm. Sự hiện hữu của thân và tâm đến
từ [ý niệm sai lầm của] ngã. Bởi vì ngã tuyệt đối không
[thực] hiện hữu, cho nên [bản văn] nói: ‘các pháp vốn
là bất-hữu’. Ðể xóa tan [bất cứ ý niệm về] một sự
bất hữu thuộc nền tảng, [bản văn] nói: ‘xóa bỏ căn
cứ’. Cũng với mục đích diệt đi ý niệm về ‘diệt’,
nên nói: ‘diệt bất cứ khái niệm về nền móng’}.
105
Ở đây khởi đầu một loạt sáu ẩn dụ, tất cả đều
từ Bát Chu Tam Muội Kinh, T13.905a-c.
106
Câu chuyện nầy cũng có ghi trong Ðại Trí Ðộ Luận, T25.110b.
Trong cả hai xuất xứ nầy và Bát Chu Tam Muội thì có tất
cả ba người đàn bà phóng đãng và ba người đàn ông mơ
tưởng đến họ từ phương xa.
107
An Dưỡng Tịnh Ðộ Tây Phương hoặc ‘Cực Lạc’. Trong
tập-ba Bát Chu Tam Muội Kinh (T13.905b) ghi lại lời dạy của
Phật A Di Ðà: {Hãy niệm danh hiệu ta liên tục nếu các ngươi
muốn vãng sinh cõi nước Cực Lạc của ta}. Tuy nhiên, tập-một
(T13.899a 29-b1) đọc rằng: {Tưởng hoặc niệm danh liên tục}.
Bản văn nầy được hai vị giáo chủ Tịnh Ðộ Tông là Ðạo
Xước (Tao-ch’o) và Thiện Ðạo (Shan-tao) xưng tán, là những
người nhấn mạnh về sự tái sinh cõi nước Cực Lạc qua
sự chí tâm tụng niệm danh hiệu Phật và đọc tụng năng
lực của các lời nguyện của Ðức A Di Ðà. (Ðọc Shan-tao,
Kuan-nien fa-men, T47.24a 19-20).
Với
những Tổ Thiên Thai Tông như Trí Khải và Chan-jan, đó là
tín hạnh của định, phát huy tam muội, và trí tuệ vào bản
tánh của tâm là cái chính yếu. Với sự phát triển vững
vàng của những người tin theo Tịnh Ðộ Tông trong cộng đồng
Thiên Thai vào cuối đời Ðường và đời Tống, tuy nhiên,
có sự tranh biện về Phật tánh và sự liên hệ với bổn
tánh của tâm, đặc biệt khi liên quan đến pháp quán. Có
phải rằng Phật được cầu xin qua quán chiếu và cơ cấu
cứu rổi được giảm trừ vào tâm, và chỉ tâm mà thôi,
hoặc là Phật còn là một ‘cái khác’ như tâm hổ trợ
vào năng lực và thực tướng Như Lai?. Phần luận về những
điều nầy, đọc Ando, Tendai gakuron: shikan to jodo, và Tendai
shiso-shi cùng tác giả.
108
Chan-jan (T46.186c25-187a2) giải thích những ẩn dụ về ba giấc
mơ như sau: {Như giấc mộng nầy, yếu tánh của tâm là nền
tảng hoặc cánh đồng nhận thức; quán tưởng tương tự
hóa hiện tư tưởng [về một đối tượng]; và phát triển
đầy đủ về sự quán tưởng nầy thì như một giấc mơ.
Chỗ nầy ứng hợp hoàn toàn vào phối cảnh tu tập của từng
cá nhân. Hơn nữa, pháp thân tương tự với nền tảng hoặc
cánh đồng nhận thức, báo thân là trí tuệ hóa hiện, và
ứng thân như mộng huyễn. Ðiều nầy đưa đến sự ứng
hợp với những đặc tính của Phật giới. Hơn nữa, vị
Phật [được thấy] tương tự nền tảng nhận thức; hành
giả [người thấy] hợp với tư tưởng hóa hiện; và cái
thấy Phật thì tương tự như mộng. Chỗ nầy xác định sự
ứng hợp của cảm và ứng. Những tác phẩm [xếp đặt] như
nhau về ba giấc mộng. Vì vậy, bất cứ nơi đâu hành giả
phát khởi cái thấy thanh tịnh, và cái thấy nầy phát sinh
như nhận thức thực sự của tướng trạng, trong tất cả
trường hợp đều tương ưng với ba khía cạnh nầy. Nếu
hành giả tìm Phật trong tướng rỗng lặng nầy, [Phật] bất
khả đắc. Như vậy, hành giả nên biết rằng giấc mộng
thứ nhất và thứ ba cho thấy [hình tướng trong mộng] thì
bất khả đắc mặc dù thấy được chúng. Giấc mộng thứ
hai cho thấy, dù rằng bất khả đắc, giấc mộng vẫn được
thấy}.
109
Chan-jan (T46.187a 16-20) nói: {Ba ẩn dụ về viên ngọc... cũng
giống như ẩn dụ về những giấc mộng. Giấc mộng thứ
hai cho thấy tâm chủ động quy về đối tượng; mã não biểu
tượng cho cánh đồng tư tưởng [hoặc chính đất tâm], và
những hình ảnh phản chiếu tương tự như cái thấy trong
mộng. Sự quán chiếu về xương trắng và ảnh hiện trong
gương cũng giống như ba khía cạnh nầy. Từ một sự khác
biệt rất chi li [chúng ta có thể thấy] cái gọi là sự lộ
bày của Giả trên căn bản Không: mã não tương tự như Không,
và sự phản chiếu của ảnh tượng tương tự như Giả đế.
Ở đó không có xương trắng sánh với Không, trong khi sự
phản ảnh của ánh sáng sánh với [sự phản chiếu] của Giả.
Gương sáng sánh với Không, hình ảnh trong gương sánh với
Giả. Ba ẩn dụ trước về giấc mộng cũng bao gồm hai mặt
Không và Giả, vì trên căn bản của tâm Không mà có Giả.
110
Harrison, The Samadhi of Direct Encounter with the Buddhas of the Present
Age, p.37, phiên dịch đoạn văn nầy từ bản Tây Tạng như
sau: {Vì hình ảnh đẹp và rõ ràng [nên] sự phản chiếu xuất
hiện}.
111
Cũng từ Bát Chu Tam Muội Kinh, T13.905c.
112
Mặc dù rất có tánh chất thuyết phục, cả đoạn văn nầy
bị hỏng, phần lớn đảo câu và khó đọc. Những bản Hoa
ngữ có thể tìm thấy: tập-một Bát Chu Tam Muội Kinh (T13.899b-c),
tập-ba Bát Chu Tam Muội Kinh (T13.905c-906a), Hiền Hộ Bồ Tát
Kinh (T13.923a1-6), Ðại Phương Ðẳng Ðại Tập Kinh (T13.877b-c),
và Ðại Trí Ðộ Luận (T25.276b). Ðoạn văn nầy không có
trong bản dịch tiếng Tây Tạng nhưng trong tác phẩm The Samadhi
of Direct Encounter with the Buddhas of the Present Age, p.43. Ðoạn
văn nầy trong ‘Maha Chỉ Quán’ không khác với đoạn văn
trong ‘Quán Tâm Luận Sớ’ của Quán Ðảnh về thường-thiền-hành
(T46.601c24-27).
Trong
bản dịch theo đoạn văn xuất sắc của Chan-jan (cũng nên
đọc Muranaka, pp.124-125) chúng tôi ghi lại ở đây. Chan-jan
(T46.187b10-21) chú giải: {Giờ đây chúng ta sẽ giải thích
toàn thể đoạn văn có trong tay: Dòng thứ nhất có thể hiểu
từ bản kinh. Tiếp theo là chữ ‘Buddha’ xuất hiện nhiều
lần bắt đầu với câu: ‘tôi tưởng niệm...’ trong mỗi
trường hợp đều có hai nghĩa. Ðầu tiên là cái thấy Phật
phát sinh trong tam muội từ [năng lực] của tâm hành giả.
Thứ hai là vị Phật thực sự từ phương Tây được cầu
khẩn [có mặt] qua cảm ứng (yin-kan). Ở đây có cả hai nghĩa,
cùng lập thành một đối tượng hoặc vị Phật được nhớ
tưởng đến. [Tuy nhiên], để hợp với lý, đoạn văn được
giải thích trên căn bản phối cảnh thứ nhất [hình ảnh
Phật sinh ra trong tam muội]. Một khi đạt được tam muội,
bất cứ điều gì hành giả nghĩ đến đều hiện ra. Sự
kiện về kinh nghiệm thực chứng chính nó là bản thể của
tâm là cái có ý nghĩa trong câu ‘tâm sáng tạo hoặc sinh
ra Phật’. Bởi vì vị Phật nầy từ tâm sinh, khi hành giả
thấy hình ảnh Phật thì gọi là ‘[tâm] thấy tâm’. Nếu
hành giả thấy tâm mình, tức ‘cùng lúc thấy Phật tâm’,
bởi vì tâm đó hoặc Phật trí đó thực sự là tâm của
hành giả. [Câu văn] từ ‘tâm nầy hoặc trí của Phật’
đến ‘thấy tâm’ giải thích rằng mặc dù hành giả thấy
Phật, khi hành giả tìm kiếm người thấy, tâm cảm nhận,
đối tượng, và hành động nhận biết, tất cả đều bất
khả đắc. Thể tánh [của quán chiếu] chỉ là hành giả tự
quán tưởng tâm của riêng mình cũng như hình ảnh của Phật
không tách rời pháp giới. Như vậy, thấy tâm của Phật không
khác thấy tâm của riêng mình. Tâm của hành giả và tâm Phật
không gì khác hơn là trung đạo. Không cần thiết phải xác
định thêm nữa, như là sự tương diệt của cả hai ...
113
Chữ hsin (tâm) dùng ở đây có thể được hiểu là trí, với
nghĩa ‘Phật được thấy’ là ‘trí của Phật’ từ tâm
của hành giả sinh ra.
114
Những bản Hoa ngữ ôn lại của Bát Chu Tam Muội khác nhau
ở đây, có nơi ghi chữ lạc (lo) là an vui hoặc kiên (chien)
là vững chắc. Chúng tôi theo Maha Chỉ Quán và Chan-jan.
115
Từ Bát Chu Tam Muội Kinh, T13.906c.
116
Chan-jan (T46.187b6-7) nói: {Tất cả chư Phật đắc Bồ Ðề
qua sự quán tưởng rằng tâm của riêng họ thì không khác
với Phật tâm.}
117
Maha Chỉ Quán khác với kinh ở đây (T13.908c-909a). Chan-jan (T46.187b28-29)
nói: {Chỗ nầy giải thích [tánh của tâm] là đối tượng
sự quán tưởng đã nói ở hàng trên. Tâm thì giống như tâm
Phật. Tâm Phật không có bất cứ ô nhiễm, tâm chúng sinh
cũng vậy.}
118
Chan-jan (T46.187b29-c3) nói: {Năm cõi [tái sinh] từ tâm phát khởi.
Thể tánh của tâm vốn thanh tịnh. Mặc dù vào năm cõi, tâm
không bị nhiễm bởi sắc tướng. Tương tự như người mắt
bị nhậm, thấy hoa đốm giữa trời. Mặc dù hoa đốm trên
bầu trời, bầu trời cũng không bị chúng ảnh hưởng. Cũng
như vậy đối với băng, sóng, dòng nước, hơi nước [đều
không ngăn ngại thể tánh của nước]}.
119
Bát Chu Tam Muội Kinh, T13.909a.
120
Cùng chỗ, T13.919b. ‘Phật ấn’ là tựa đề của phẩm sau
cùng trong tập-ba Bát Chu Tam Muội Kinh. Chan-jan (T46.187c4) nói:
{‘Phật ấn’ chỉ cho [bản tánh của] của đối tượng
quán chiếu trong quá khứ: vì không gì khác hơn là chính thực
tại, chúng tôi gọi là ‘Phật ấn’}.
121
Chan-jan (T46.187c5-8) nói: {Chỗ nầy giải thích phẩm tánh của
quán: hành giả ‘không mong cầu’ Hữu, ‘không trở nên
trói buộc’ vào Không, và không tìm gì ngoài Trung Ðạo. Vì
hành giả thoát ra ngoài ba ý tưởng nầy, chúng tôi nói rằng
‘tất cả hiện hữu hoặc sự có mặt [của một đối tượng]
và tất cả vọng dục đã khô cạn’. ‘Hiện hữu của một
đối tượng’ chỉ cho đối tượng quán chiếu. ‘Vọng dục’
chỉ cho trí quán chiếu. Chủ thể và đối tượng cả hai
tan biến, vì tan biến nên không sinh [từ Phật ấn] cũng không
có bất cứ phươg tiện để [một dấu ấn như vậy] phát
sinh’. Không sinh cũng không diệt.
122
Chan-jan (T46.187c13-14) nói: {Ngay cả những người chủ trương
đoạn diệt của Nhị Thừa không thể làm hư hoại nó được.}
123
Là một đoạn trong ‘Kinh Bát Chu Tam Muội’, T13.919b.
124
T26.86a. Ðây là từ bốn dòng kệ, đọc như sau: {Nếu một
Bồ Tát phát sinh tâm giác ngộ tưởng nhớ đến tướng hảo
của chư Phật qua mười hình dung, thì người ấy sẽ không
mất ảnh tượng về Phật, giống như người ấy nhìn ảnh
tượng của chính mình trên mặt gương}.
125
Cùng chỗ. T26.64c27-29. Những bản kinh chỉ phân biệt ba lối
quán hình tướng: thể của tướng, hành hoặc nghiệp tạo
nên tướng, và kết quả của tướng. Maha Chỉ Quán và Chan-jan
trích câu thứ tư không được đề cập trong kinh nầy: cái
dụng của tướng. Chan-jan (T46.188a4) giải thích: {Mỗi [tướng]
có cái dụng độc đáo làm lợi ích người khác.}
126
Cùng chỗ. T26.86a. Ba mức độ năng lực tu tập ‘niệm Phật
tam muội’ hợp với ba thứ lớp quán Phật: (1) mười tướng
hảo và ba mươi hai tướng, (2) bốn mươi bất cộng pháp (thần
lực và lợi ích) được kinh nói đến như pháp thân, và (3)
Phật tức chân như (Sarvadharmabhutata). Tên mười tám bất cộng
pháp thường thấy trong kinh điển Ðại Thừa.
127
Cùng chỗ. T26.86a.
128
Từ Bát Chu Tam Muội Kinh, T13.903b.
129
Thập Ðịa Tỳ Bà Sa Luận, T26.68c.
130
Kinh Bát Chu Tam Muội (T13.913c): {Tam muội nầy là mắt của
Bồ Tát, là mẹ của tất cả Bồ Tát, là cảnh giới của
tất cả Bồ Tát, từ đó tất cả Bồ Tát được sinh ra}.
Thập Ðịa Tỳ Bà Sa Luận (T26.25c) nói: {Bát Chu Tam Muội là
cha, đại bi và vô sinh [pháp] nhẫn là mẹ, tất cả Như Lai
đều sinh ra từ hai pháp nầy}. Ðọc những chú giải tương
tự trong Ðại Trí Ðộ Luận, T25.314a.
Chan-jan,
T46.188b13-16, giải thích: {Trí tuệ biết được chân lý là
mẹ của chư Phật. Thấy được trung [đạo] là mắt Phật.
Phương tiện thiện xảo (upaya) là cha. Tâm bi vô lậu [cũng]
là mẹ}. Vấn: {Tại sao có hai đề mục cho mẹ?}. Ðáp: {Trí
tuệ biết được chân lý là [mẹ] sinh ra; tâm bi là [mẹ]
nuôi dưỡng. Nếu như bi và trí không đồng thời có mặt,
đứa con lành sẽ không thể trưởng thành}.
131
Tất cả từ ‘Thập Ðịa Tỳ Bà Sa Luận’, T26.87c-88a. Tuy
nhiên, một ẩn dụ tương tự cũng thấy trong ‘Bát Chu Tam
Muội’, T13.907c-908a.
132
Tập luận cũng đề cập người kia bị người xấu vây hãm
(trong Maha Chỉ Quán, những chữ ‘xấu xa’ và ‘côn đồ’
bị đảo ngược), sư tử, cọp, sói, thú dữ, rồng, rắn
độc, Dạ Xoa, La Sát, quỷ Câu Bàn Ðồ, quỷ Tỳ Xá Da, nhân,
phi nhân, cũng như các chứng bệnh về mắt, tai, mũi, lưỡi,
miệng, răng, và những bệnh khác.
133
Thập Ðịa Tỳ Bà Sa Luận, T26.88a-b. (Cũng cần đọc Bát Chu
Tam Muội, T13.912c-913a). Ðoạn văn trong Maha Chỉ Quán về Thập
Ðịa Tỳ Bà Sa Luận hoàn toàn khác. Luận (T26.88b2-12) nói:
{Nếu có người nghe được tam muội nầy, sinh lòng hoan hỷ
trong bốn đường sẽ đưa về giác ngộ tối thượng: (1)
Khi luôn luôn tìm nghe làm cách nào chư Phật trong quá khứ
thực hành Bồ Tát đạo, lòng hoan hỷ trong tam muội của chư
vị, mà nghĩ rằng ‘Tôi cũng sẽ được như vậy’, (2) Khi
nghe được chư Phật trong hiện tại, người ấy sinh lòng
hoan hỷ trong tam muội của chư vị mà nghĩ rằng ‘Tôi cũng
sẽ được như vậy’, (3) Khi nghe được chư Phật vị lai
sẽ thực hành Bồ Tát đạo như thế nào, sinh lòng hoan hỷ
trong tam muội của chư vị mà nghĩ rằng ‘Tôi cũng sẽ được
như vậy, (4) Khi nghe được những tam muội chư Bồ Tát trong
quá khứ, tương lai, và hiện tại tu tập ... nghĩ rằng ‘tôi
cũng hoan hỷ’. Những tùy hỷ như vậy sánh không bằng một
phần trăm, một phần muôn ức công đức thực sự có được
từ tu tập tam muội nầy. Công đức có từ tam muội nầy
không thể nói bằng ngôn từ. Hạnh thực sự của tam muội
nầy không thể tính kể, không thể báo đáp.}
134
Trong Bát Chu Tam Muội Kinh, T13.907a, ghi rằng người đàn ông
nầy không những không thể ngữi mùi hương thơm, mà còn cho
rằng nó hôi hám.
135
Cùng chỗ. T13.907a-b. Kinh viết người bán hàng muốn bán một
viên ngọc cho cậu bé trong làng, ngọc sáng đến đổi có
thể dùng thay đèn khi trời tối. Cậu bé không biết giá trị
của viên ngọc, và chỉ bằng lòng đổi lấy một con bò.
136
Tựa đề theo lối dịch từng chữ; thực sự có nghĩa rằng
‘tu tập tam muội trong lúc đứng hoặc trong lúc ngồi’.
137
Ðại Phương Ðẳng Ðà La Ni Kinh (Ta feng-teng t’o-lo-ni ching,
T no. 1339) bộ mật kinh do Pháp Chúng (Fa-chung) đời Bắc Lương
(đầu thế kỷ thứ năm) dịch. Pháp môn nầy trải rộng ở
Trung Hoa vào thời tôn giả Tuệ Tư và Trí Khải. Ðọc Stevenson,
The T’ien T’ai four Forms of Samadhi, pp.175-188; và Ono, Hotodara-nikyo
ni motozuku sembo.
138
T21.645b. Kinh nói: {Ðọc bản văn nầy 120 lần trong khi đi nhiễu
quanh 120 vòng, rồi dừng lại, ngồi xuống, và tư duy. Sau khi
tư duy, lại đọc tụng bản văn. Tiếp tục thực hành trong
bảy ngày.}
139
T9.6a-b. Ðoạn văn từ phẩm 28 ‘Phổ Hiền khuyến phát’,
trích từ 21 ngày Pháp Hoa Sám Pháp. Ðọc Hurvitz, pp.333-337.
140
Trong Ðại Thừa Phương Ðẳng Ðà La Ni Kinh (Mahavaipulya-dharani
Sutra), nghi thức đặc biệt về phương đẳng sám hối thì
rất hiếm và xuất hiện rải rác trong bốn tập sách. Nghi
thức bảy ngày (cùng giữ hai mươi bốn giới) có nói đến
trong tập-một (T21.645b2-c9); mười vị pháp vương tử và những
hình thức cúng dường khác trong tập-hai (T21.650b), y phục
(T21.651a) và những sự chuẩn bị nghi lễ và sự khẩn cầu
mười hai vị thần tướng trong tập-ba (T21.652a-b). Thêm vào
phần ngắn gọn nầy trong Maha Chỉ Quán, Trí Khải cũng soạn
hai cẩm nang riêng biệt về Phương Ðẳng Sám Hối. Cả hai
đều là những nghi thức thực hành sâu rộng. Ðó là Phương
Ðẳng Hành Pháp, tập 6 trong KCLP (T46.796a-798c), và Phương Ðẳng
Tam Muội Hành Pháp (T46.943a-949a). Bản văn sau- nội dung và
hình thức rõ ràng là một tác phẩm của Trí Khải- dường
như mất dạng ở Trung Hoa vào đầu nhà Ðường, chỉ từ
Nhật Bản trở lại vào thế kỷ thứ 11. Trong ba tác phẩm
của Trí Khải mô tả về nghi thức phương đẳng, thì Phương
Ðẳng Tam Muội Hành Pháp là tác phẩm sớm nhất; KCLP Phương
Ðẳng Hành Pháp xuất hiện khoảng giữa đời hoằng pháp
của Trí Khải; và Maha Chỉ Quán sau cùng. Ðọc Sato, Tendai
daishi no kenkyu, pp. 190-220.
Chan-jan
(T46.46.189a14-15) ghi chú: {Chi tiết về nghi lễ được đưa
ra ở đây khó thực hiện [như một bảng hướng dẩn] thực
hành, vì vậy chính bản văn [của Maha Chỉ Quán] hướng dẩn
hành giả đến [Phương Ðẳng Hành Pháp] trong Quốc Thanh Bách
Lục}.
141
Theo Ðại Phương Ðẳng Ðà La Ni Kinh (T12.641c17-642c27), đà
la ni trong nghi lễ nầy được (bởi Phật Ða Bảo) cho Bồ
Tát Hoa Tràng khiến vị nầy có thể hàng phục ma quân nhiễu
loạn tỳ khưu Lôi Âm. Khi tỳ khưu Lôi Âm đọc đà la ni,
chúng ma bị hàng phục và nguyện đời đời bảo hộ phương
đẳng đà la ni và nghi thức đà la ni. Vì vậy chúng trở thành
mười hai vị thần tướng ban ra những thánh tích cho phép
được cử hành đại lễ sám hối nầy.
142
Phật nói trong tập-ba của bản kinh (cùng chỗ, T21.652a 5-b10)
{Hoặc là Ta còn tại thế hoặc là khi Ta đã rời khỏi thế
gian, nếu có thiện nam hoặc thiện nữ đến tìm ngươi và
cầu học đà la ni nầy, thì hãy bảo người ấy tìm mười
hai vị thần tướng. Nếu người ấy thấy được một vị,
thì ngươi có thể dạy người ấy thực hành [sám pháp] bảy
ngày}. Tên của mười hai vị thần tướng cũng như chi tiết
về giấc mộng cho phép cử hành đại lễ, đọc tập-một,
T21.642a.
Trí
Khải cũng mô tả chi tiết về nghi lễ sám hối trong Phương
Ðẳng Tam Muội Hành Pháp (T46.b16-20): {Bảy ngày [trước khi
cử hành đại lễ] hành giả nên thực tập đi nhiễu quanh
và tụng đọc những câu chú đến khi thuần thục. Chí tâm
sám hối những lỗi lầm gây tạo, khẩn cầu các vị thần
tướng cho hành giả thấy được những dấu hiệu. Nếu được
một vị [ban ân] thì được phép thực hành lễ sám hối.}
Cũng đọc KCPL, Phương Ðẳng Hành Pháp (T46.797a 8-17).
Phương
Ðẳng Tam Muội Hành Pháp (T46.943a-944a) trích trong tập thứ
tư bản kinh (T21.656a-657b), cũng gồm những nghi lễ sám hối
phụ theo có thể được dùng bởi bảy tăng già tha thứ những
tội lỗi làm chướng ngại ân sũng thực hành bảy ngày sám
hối.
143
Chan-jan (T46.189b23-25) nói: {Hành giả nên sửa soạn một chỗ
tôn nghiêm trong một tăng đoàn. Nếu hành giả là cư sĩ, nơi
nhà ở cũng được, có nghĩa là hai người (nam và nữ).
144
Chan-jan (T46.c10-11) nói về kiểu bàn thờ hình tròn (t’an):
{Trong cẩm nang nghi lễ nói rằng đắp trên đất. Pháp Phật
theo cách hành lễ nầy, nhưng [bàn thờ] theo hình hoa sen. Vì
vậy bản văn nói ‘làm bàn hình tròn có màu tươi sáng.’}
Tôn giả nói về lọng hoặc phướn (T46.189c14-16): {Khi làm
lọng hoặc phướn không được phép vẽ hình của Phật hoặc
Bồ Tát trên ấy. Phướn là vật cúng dường được dâng
cúng lên [chư Phật] trong buổi lễ}.
145
Ðọc Ðại Phương Ðẳng Ðà La Ni Kinh, T21.657a. Bản kinh cũng
chỉ dẩn (T21.650a): {Tô phết tường trong tịnh thất, và vẽ
những nét màu}. Rõ ràng ở đây nói đến việc vẽ màu trên
tường. Ðọc những chi tiết về việc làm trang nghiêm và
thanh tịnh buổi lễ trong Phương Ðẳng Tam Muội Hành Pháp
(T46.945a 7-18) và KCPL, Phương Ðẳng Sám Pháp (T46797a 17-29).
Những chi tiết về hương và trầm được nói đến trong kinh,
T 21.646b, 650b, 652b, ở nhiều chỗ. Chan-jan (T46.189c 16-17) ghi
‘hương trầm thủy’ như một loại trầm thơm.
146
Kinh (T21.646b15-16) nói rõ 24 chư thần được tôn kính cúng
dường nhưng không ghi rõ danh hiệu của chư vị. Trong ‘Phương
Ðẳng Sám Pháp’ (T46.797b4-20), Trí Khải cung thỉnh các chư
vị theo thứ tự như sau: mười vị Phật ghi trong kinh (cung
kính từng vị), phụ mẫu đà la ni (chung), mười pháp tịnh
(riêng), tỳ khiêu Lôi Âm và Bồ Tát Hoa Tràng, mười hai vị
thần tướng (chung), và chư Thanh Văn (ngài Xá Lợi Phất ...
(chung)-tất cả là hai mươi lăm vị. Ðọc tên của mười
pháp tịnh trong T21.650b; mười hiệu của Phật trong T21.650c.
147
Theo Chan-jan, T46.189c25-26 và T46.185c20-21.
148
Chi tiết về y phục, đọc Ðại Thừa Phương Ðẳng Ðà La
Ni Kinh, T21.651a. Trong kinh không đề cập đến trầm hương.
Chi tiết về áo quần, giày dép thì có ghi trong Phương Ðẳng
Sám Pháp (T46.797a) và Phương Ðẳng Tam Muội Hành Pháp (T46.944c-945a).
Chan-jan (T46.189c27) ghi lại rằng đối với áo tràng và các
loại giày dép được dùng trong và ngoài đạo tràng.
149
Theo Phương Ðẳng Tam Muội Hành Pháp (T46.944c, 945b) thì những
áo tràng sạch sẽ chỉ dùng bên trong đạo tràng, khi ra ngoài
thì thay đổi áo. Những cảnh cáo sau đây được đưa ra để
giữ điều kiện vệ sinh của đạo tràng (T46.945b23-24): {Nếu
hành giả không giữ được sự thanh tịnh trong những đường
lối nầy thì sẽ không hành động thuận hợp với những
lề lối đã nói. [Nếu như vậy] nghi lễ cử hành có thể
sẽ không mang lại lợi ích mà còn chuốc lấy tội lỗi. Vì
vậy các người tham dự rất nên tự cảnh giác để duy trì
sự thanh tịnh.}
150
Ðây là [giới] hạnh thông thường đối với tăng sĩ và một
trong tám phát lồ sám hối (uposatha) dành cho cư sĩ. Chan-jan
(T46.190a2) nói: {Trong suốt [giới] hạnh nầy, họ giữ không
ăn sau giờ ngọ}.
151
Ðọc Ðại Thừa Phương Ðẳng Ðà La Ni Kinh, T21.645b26-27. Chi
tiết về gian nhà tắm và cách thức giữ vệ sinh được nói
rõ trong Phương Ðẳng Tam Muội Hành Pháp, T46.945b.
152
Ðọc Ðại Phương Ðẳng Ðà La Ni Kinh (T21.646b). Phương Ðẳng
Tam Muội Hành Pháp (T46.945a20-22) nói: {Hành giả phải cúng
dường [vị tăng] trong ngày thứ nhất buỗi lễ và một lần
cúng dường vào ngày thứ bảy trước khi chấm dứt buổi
lễ. Sau khi những người tham dự đã rời đạo tràng, thỉnh
mời một nhóm tu sĩ. Không có nói số [người].}
153
Ðọc chi tiết trong Ðại Phương Ðẳng Ðà La Ni Kinh (T21.645b),
cũng như Phương Ðẳng Tam Muội Hành Pháp (T46.946a-b) và KCPL
Phương Ðẳng Sám Pháp (T46.797a).
154
Hai mươi bốn giới được nói trong Ðại Phương Ðẳng Ðà
La Ni Kinh, T21.645c-646b, được xem như ‘hai mươi bốn giới
của Bồ Tát Ðại Thừa’ (T21.646b7). Ngoài những nơi chốn
đặc biệt trong tứ tướng tam muội của Thiên Thai Tông, phương
đẳng sám pháp và hai mươi bốn giới đóng vai trò quan trọng
như một truyền thống thọ Bồ Tát giới ở Trung Hoa. Ðọc
Stevenson, The T’ien T’ai Four Forms of Samadhi, pp. 176-188.
155
Sự tụng niệm chú trong buổi lễ bảy ngày được nói rõ
trong Ðại Thừa Phương Ðẳng Ðà La Ni Kinh (T21.645b) và Phương
Ðẳng Tam Muội Hành Pháp (T46.944a). Những câu chú khác được
trao cho các tín chủ là những người đã phạm đại tội,
phải hành hạnh thanh tịnh để được ân sũng thực hành
bảy ngày sám hối nầy. Ðọc chi tiết trong kinh (T21.656b-658b)
và Phương Ðẳng Tam Muội Hành Pháp (T46.943b-944a).
156
Chan-jan (T46.190a 25-27) đề nghị phẩm hạnh của vị thầy
hoặc người hướng dẩn nầy như sau: {[Người nầy hạnh]
phải thanh tịnh, thực hành các pháp và [biết] chi tiết thứ
lớp giáo lý, quen thuộc với những [dấu hiệu] chướng ngại.
Nếu người nầy là kẻ phạm trọng tội, và không biết gì
về những chướng đạo thì làm cách nào thích hợp trong việc
sám hối?}.
157
Ðọc Ðại Phương Ðẳng Ðà La Ni Kinh, T21.645c2. Chúng tôi
theo Phương Ðẳng Tam Muội Hành Pháp (T46.945a 7) và KCPL, Phương
Ðẳng Sám Pháp (T46.797b2-3) ở đây. Chan-jan (T46.190a 27-28) nói:
{Với ngày thứ tám và ngày thứ mười lăm tháng trăng, hai
tuần trăng mờ và trăng tỏ được đánh dấu trong hai ngày
thứ nhất và thứ tám tháng trăng tỏ, ngày mười lăm và
hai mươi ba tháng trăng mờ. Hầu hết chọn ngày thứ tám.
Pháp Hoa Sám Pháp đặc biệt [đưa ra] bất cứ ngày nào trong
sáu ngày phát lồ sám hối.}
158
Ðại Phương Ðẳng Ðà La Ni Kinh nói rằng có thể kéo dài
hơn bảy ngày, ‘lâu như hành giả có thể đáp ứng’ (T21.649b,651a).
Cả hai Phương Ðẳng Tam Muội Hành Pháp (T46.944a, 945a21, 946a9)
và KCPL Phương Ðẳng Sám Pháp (T46.797c2) nói rõ thời gian cố
định là bảy ngày. Chan-jan (T46.190a 29-b1) nói: {Bảy ngày tượng
trưng một thời gian tối thiểu. Hành giả không nên giảm
bớt. Nhưng nếu hành giả muốn tiếp tục sự tu tập nầy
thì người ấy có thể kéo dài bao lâu tùy ý. Vì vậy nên
Ngài Nam Nhạc (Tuệ Tư) thực hành hơn suốt bảy năm}.
159
Ðọc Phương Ðẳng Tam Muội Ðà La Ni Kinh, T21,655b27, Phương
Ðẳng Tam Muội Hành Pháp. T46.945a, và Phương Ðẳng Sám Pháp,
T46.797b. Chan-jan, T46.190b2, luận về nghi thức nầy vào thời
sơ Ðường, nói: {Nam Sơn (Nan-shan) Ðạo Tuyên (Tao-hsuan) kể
lại: ‘Ta đã chứng kiến cử hành [nghi lễ] phương đẳng
ở kinh đô, đôi khi có cả trăm người, những lần khác,
nửa số trên’.
160
Ðọc Ðại Phương Ðẳng Ðà La Ni Kinh, T21.650c-651a, và Phương
Ðẳng Tam Muội Hành Pháp, T46.944c.
161
Những chi tiết trong kinh nói về áo tràng, đọc Ðại Phương
Ðẳng Ðà La Ni Kinh, T21.651a. Phương Ðẳng Tam Muội Hành Pháp,
T46.944c-945a đưa ra ba loại áo tràng được chuẩn bị. Áo
sạch mặc trong đạo tràng của cư sĩ thì giống áo khất
sĩ, chỉ khác là tà đơn (T46.944c29-945a2): ‘Áo nầy chỉ lấy
ra mặc khi vào đạo tràng lễ Phật ba lần. Dù mặc áo khất
sĩ nhưng cư sĩ không cạo tóc’. Chan-jan (T46.190b15-16) giải
thích rằng [cư sĩ] được phép mặc áo tà đơn, nhưng không
được mặc áo ‘vá’ của khất sĩ.
162
Theo Chan-jan (T46.190b19-21): {Thời lễ đầu tiên trong ngày thứ
nhất chỉ cho thời lễ vào buổi sáng sớm. Một người có
giọng đọc rõ ràng sẽ được chọn từ trong đại chúng
để tụng thần chú. Khi người nầy chậm lại thì người
khác nối theo}.
163
[Hồng danh] của mười vị Phật có ghi trong KCLP, Phương Ðẳng
Sám Pháp (T46.797b), là Phật Ratnaraja và chư vị khác trích
ra từ kinh [phương đẳng]}. Một bảng hồng danh khác cũng
được ghi trong Ðại Thừa Phương Ðẳng Ðà La Ni Kinh, T21.650c3-5,
gồm có Phật Vô Lượng Thọ (Amitayus) và bảy vị cổ Phật.
Chan-jan (T46.190b22) ghi rằng đó là sự phối hợp của hai bản
văn: {Phật Ratnaraja ... cùng với bảy vị cổ Phật.’
164
Chan-jan (T46.190b28) nói: {Phật là pháp vương, Bồ Tát là con
Phật (pháp vương tử)}. Mười vị pháp vương tử chỉ cho
mười đại Bồ Tát, gồm có Ngài Văn Thù Sư Lợi, Hư Không
Tạng, Quán Thế Âm ... ghi trong Ðại Phương Ðẳng Ðà La Ni
Kinh (T21.650b).
165
Nghi thức thỉnh giáo trong KCPL Phương Ðẳng Sám Pháp, T46.797b.
Phụng thỉnh tam bảo dưới các nghi lễ xưng tán: (1) mười
vị Phật trong kinh (riêng mỗi vị), (2) phụ mẫu đà la ni
(chung), (3) mười vị pháp vương tử ghi trong kinh (riêng), gồm
có Bồ Tát Câu Tô Ma ... (4) Tất cả Thanh Văn và Duyên Giác
như ngài Xá Lợi Phất ... (chung), (5) Phạm Thiên, Ðế Thích,
và mười hai vị thần tướng (chung). Mỗi lần đều đọc
như sau ‘Nhất tâm cung thỉnh! Cung kính hướng về ...}. Lập
lại tất cả ba lần như vậy.
Quán
Ðảnh đã đưa câu nầy vào Maha Chỉ Quán sau khi Trí Khải
qua đời, vì KCLP được soạn vào năm 605, tức mười hai năm
sau khi Trí Khải mất.
166
Chan-jan (T46.190c5-7) nói: {Sám hối tam nghiệp: thân quỳ gối
lưng thẳng, miệng xưng tán, tâm tưởng niệm. Ngài Nam Sơn
(Ðạo Tuyên) nói rằng nghi lễ nầy đã lưu truyền từ thượng
cổ chưa được tiêu chuẩn hóa. Nghi thức tưởng niệm [và
cúng dường] ở đây hoàn toàn được thuyết trong Pháp Hoa
Sám Pháp (Samantabhadra) của Thiên Thai Trí Khải Ðại Sư.
167
Chan-jan (T46.190c7-11) nói về nghi thức cung thỉnh: {Trong tất
cả trường hợp, hành giả phải thành tâm. Hành giả dùng
thân lạy nằm dài mặt úp xuống mặt đất (li). Ðại khái
về những động tác lạy nầy như sau: Hai đầu gối chạm
[mặt đất] trước, hai cùi chỏ tiếp theo, và sau cùng trán
chạm đất, khiến cả thân người nằm dài trên mặt đất.
Hành giả thấy rằng chính mình đang phủ phục dưới chân
Phật, rồi đưa tay đỡ lấy chân Phật, khi Ngài ở ngay trước
mắt hành giả. Trong tư thế gối quỳ, đầu và hai cánh tay
thẳng, thân cúi nhẹ nhàng, hai bàn tay chắp lại, ngay ngắn
trước Phật. Người thời nay hầu hết không giữ lễ nầy,
và hoàn toàn lướt qua cách quỳ lạy đúng phép. Bao lâu mà
vòng dây kiêu mạn chưa bị cắt bỏ thì biển nghiệp sẽ
khó mà vượt qua}.
168
Chan-jan (T46.190c15-16) nói: {Tư duy được nói đến trong mục
Chỉ và Quán Tâm}.
169
Ðại Phương Ðẳng Ðà La Ni Kinh (T21.645b27-29) chỉ nói đại
cương về nghi thức: gội rửa thân thể ba lần mỗi ngày,
thay đổi quần áo, nhiễu quanh 120 vòng, và tụng đọc thần
chú, ngồi xuống tư duy, lại tiếp tục đọc tụng và đi
nhiễu quanh. KCPL, Phương Ðẳng Sám Pháp (T46.943b) thiếu phẩm
thứ 5 nói chi tiết về nghi lễ.
Sự
khác biệt quan trọng giữa các bản văn Maha Chỉ Quán và KCPL
ở đây là trong bảy câu cuối (Bắt đầu ngày thứ hai...)
bản trước (T46.13b21) nói: {từ giai đoạn hoặc thời thứ
hai bỏ qua phần cung thỉnh}, trong khi bản sau nói: {từ ngày
thứ hai, bỏ qua phần cung thỉnh}. Chan-jan (T46.190c16-17) đưa
ra: {Ðây là giữa thời buổi sáng, vòng lễ thứ nhất vừa
xong, và vòng lễ thứ hai bắt đầu. Không cần phải cung thỉnh
chư thiên [một lần nữa] mà thẳng vào lễ cung bái chư Phật.}
Kogi (1.469) không đồng ý, và bênh vực bản văn KCPL, Phương
Ðẳng Sám Pháp bằng cách duyệt lại những phương tiện thực
hành nghi lễ Phật giáo. Căn cứ vào những chứng cớ trong
Pháp Hoa Tam Muội Sám Nghi (Fa-hua san-mei ch’an-ì) (T46.950a 21-23,
954b 14-17) [của Trí Khải], lối giải thích của Chan-jan đã
minh bạch.
170
Chan-jan (T46.190c 17-20) nói: {Ðây là bản văn làm rõ nghĩa phương
pháp quán tưởng thực tướng (shih-hsiang kuan-fa). Từ đó giải
thích pháp quán được áp dụng đối với hiện tượng (li-shih
kuan-fa), tất cả các kinh hoặc luận đều như vậy, không
riêng gì đoạn văn ở đây}.
171
Mo-ho-t’an-ch’ih t’o-lo-ni, là phần chú chính trong bảy ngày
lễ. Mo-ho dịch từ Phạn ngữ Maha có nghĩa là đại; chữ
T’an trong Hoa ngữ có nghĩa là mang đi, hoặc ngăn chận; chữ
ch’ih có nghĩa là làm an ổn. Chữ T’an có thể được dịch
từ chữ da trong Phạn ngữ, nghĩa là cho, như Mochizuki (Bukkyo
daijiten, 4.3183d-3184a) đề nghị, chữ Mahadahana là làm bùng
cháy như thiêu rụi ô nhiễm.}
172
Lối dịch nầy của Trí Khải không dựa vào kinh hoặc tựa
đề của thần chú.
173
Chan-jan (T46.190c28-29) có thể đưa ra những diễn đạt tương
tự trong kinh Pháp Hoa và kinh Niết Bàn nói: {‘Ðại’ chỉ
cho sự kiện hiển hoặc ẩn thiên kiến [nghiêng] về Tiểu
[pháp]. ‘Mật’ có nghĩa rằng tất cả pháp trong đó chỉ
là một pháp; ‘Thể’ có nghĩa một pháp bao trùm tất cả
pháp.}
174
Chan-jan (T46.191a 22-23) nói: {Ðiều nầy muốn nói người tự
trói buộc vào tam muội.}
175
Theo Chan-jan (T46.191a 23-24).
176
Giản lược từ Ðại Phương Ðẳng Ðà La Ni Kinh, T21.645a 11-22.
177
Mười tám Không được nói rõ trong Ðại Trí Ðộ Luận, T25.285b-296b,
diễn đạt mười tám phủ nhận hoặc chứng ngộ về Không,
bắt đầu với nội Không, ngoại Không, nội ngoại Không và
chấm dứt với vô pháp, hữu pháp Không. Bản Anh ngữ (thêm
vào đến hai mươi mục), đọc phụ lục của Murti, The Central
Philosophy of Buddhism, pp.351-356.
178
T12.756c. Kinh Niết Bàn giải thích ở đây về giáo lý các
pháp có tự tánh (svabhava) chỉ là [để nói với] kẻ thế
tục. Rằng các pháp không có tự tánh là giáo lý dành cho
người trí, bởi vì thực sự không có gì để thấy. Bát
Nhã không thể được tu tập, Niết Bàn không phải để bước
vào, lục độ, ngũ uẩn, Như Lai, tất cả là Không. Phật
dạy rằng: {Ðó là lý do tại sao tại thành Ca Tỳ La Vệ,
Ta dạy A Nan đừng sầu thảm}(vì cái họa xảy ra cho thành
và dân trong thành). A Nan thưa rằng: {Bạch Thế Tôn, tất cả
quyến thuộc của con đã bị hại, làm sao con lại không buồn
khổ? cả Như Lai và con đều sinh ra trong thành nầy, là thành
phố của bộ tộc Thích Ca, và có cùng quyến thuộc. Tại
sao chỉ riêng Như Lai là không ưu sầu?}. Phật trả lời: {Nầy
A Nan! Ngươi nhìn thành Ca Tỳ La Vệ như một cái gì đó thực
sự có mặt, nhưng Ta thấy đó là không tịch và bất hữu.
Ngươi nhìn tất cả bộ tộc Thích Ca là của ngươi, nhưng
vì Ta dùng cái thấy Không, Ta không thấy bất cứ điều gì
trong đó thực sự hiện hữu. Vì vậy, ngươi trở nên cực
kỳ buồn thảm, trong khi thân và dáng vẻ của Ta càng ngời
sáng như tự bao giờ.}
179
Phần còn lại của bản văn Maha Chỉ Quán về phương đẳng
sám pháp thì hoàn toàn gần gủi (và có thể căn cứ vào)
một đề mục trong tác phẩm KCPL, Phương Ðẳng Sám Pháp,
mang tựa đề ‘Biểu Tượng Của Nghi Lễ’ (T46.798a 20-b18).
Ở đây chữ phương cũng có nghĩa là sự chỉ dẩn, với bốn
cửa tượng trưng cho bốn cửa nền tảng. Ẩn dụ về ao nước
tịnh thanh lấy từ kinh Pancavamsati và những bản luận quanh
kinh nầy, Ðại Trí Ðộ Luận, T25.640c. Ở đây ngài Tu Bồ
Ðề được xem là người ‘vào được cửa’ bát nhã ba
la mật., nhưng Phật vẫn chỉnh đốn tôn giả, giải thích
rằng tiềm năng chứng đạo của một hành giả không tùy
thuộc vào căn tánh sắc bén hoặc trì trệ, mà tùy thuộc
vào [chánh] tinh tấn, [chánh] tư duy, và [chánh] định. Ngài
phân biệt ‘bốn cửa’ hoặc pháp môn khế hợp căn cơ chúng
sinh. Về sau Thiên Thai Trí Khải làm sáng tỏ bốn cánh cửa
như bốn mặt của hiện hữu: Hữu Môn, Không Môn, Diệc Hữu
Diệc Không Môn, và Phi Hữu Phi Không Môn.
180
Chan-jan (T46.191b13-14) nói: {Trong sự thực hành pháp quán, hành
giả trước hết phải tu tập Không và Giả. [Các chữ] ‘trước
hết tu tập’ có thể cũng muốn nói rằng hành giả áp dụng
[nghi thức] sự tướng như căn bản thực tập pháp quán.}
181
Trong bốn nhà chú giải, không có ai đưa ra xuất xứ ẩn dụ
nầy thuộc kinh nào. Chúng tôi đi theo Chan-jan (T46.191b17-23)
là người đã đưa ra chú thích về chữ ‘tràng’ (ch’ang)
lấy từ cặp chữ ‘đạo tràng’ (tao-ch’ang) như một phần
của cánh đồng, nơi mà sau khi những bông lúa đã được
gặt, mặt đất trở lại bằng phẳng và lún xuống để có
thể dùng làm chỗ đập lúa. Năm cơ sở hoặc nền móng có
thể chỉ cho năm nền móng ảo vọng hoặc ô nhiễm (vasabhumi),
dù rằng không nói rõ như Chan-jan ở đây. Kinh Thắng Man (Srimala)
(T12.230a-c) ghi là: (1) kiến hoặc trong ba cõi, tu hoặc trong
các (2) cõi Dục, (3) cõi Sắc, (4) cõi Vô Sắc, và (5) căn bản
vô minh. Chan-jan thay đổi như sau: (1) kiến hoặc và (2) tu hoặc
(cả hai để vào chung như những chướng ngại từ sự chấp
giữ hình tướng), (3) trần sa hoặc, (4) căn bản vô minh. Ðọc
Nitta, Tendai jisso-ron no kenkyu, pp.448-454.
182
Về việc nên là phướn lụa không thấy nói đến trong Maha
Chỉ Quán có trước (T46.13b3), nhưng thấy trong kinh cũng như
trong KCPL Phương Ðẳng Sám Pháp (T46.797b4-5).
183
Chan-jan (T46.191b22-23) nói: {Vọng tưởng tức pháp giới; vì
thế chúng ‘không cách ly’}.
184
Chan-jan (T46.191b23) nói: {Hương thơm của giới hạnh lan tỏa
khắp nơi, ánh sáng trí tuệ chiếu rạng tròn đầy}.
185
Chan-jan (T46. 191b24): {Phật với trí tuệ giác ngộ viên mãn
trụ trong Không tức cảnh giới của lý (li).}
186
Ðây là nhẫn thứ năm trong ngũ nhẫn (ksanti) được nói đến
trong Nhân Vương Bát Nhã Ba La Mật Kinh (Jen-wang pan-jo p’o-lo-mi
ching), T8.826b-827b, nơi mà con đường đưa về Phật giới hổ
tương với hạnh nhẫn đắc được qua (1) hàng phục phiền
não, (2) tín, (3) thuận đạo, (4) vô sinh pháp nhẫn, và (5)
tánh tịch diệt (Niết Bàn) của chính Phật giới.
187
Thất Bồ Ðề Phần (bodhyanga): (1) Niệm, (2) Phân biệt các
pháp, (3) Hỷ, (4) Khinh an, (5) Xả, (6) Ðịnh, (7) Tinh tiến.
188
Tam chướng gồm có phiền não, nghiệp, và báo. Tam tuệ (dựa
vào Ðại Trí Ðộ Luận, T25.257c-260c) là nhất thiết trí (tức
Không, sarvajnata), đạo chủng trí (margakarajnata), trong đó văn
từ của Thiên Thai Tông hợp với cái thấy Giả, và nhất
thiết chủng trí (sarvakarajnata) hoặc Trung Ðạo. Chan-jan (T46.191c6-7)
chú giải: {‘Rằng cái bị gột rửa là phiền não, cái làm
việc gột rửa là quán. Vì thân không phải là bất tịnh,
chủ thể và đối tượng đồng thời thanh tịnh.}
189
[Hạnh] thứ năm trong mười thanh tịnh hạnh hoặc những giới
luật được ghi lại trong Thứ Ðệ Thiền Môn (T’zi-t’i
ch’an-men, T46.484c22-23), và Maha Chỉ Quán (T46.36c27-28); cái
thứ sáu trong Maha Chỉ Quán (T46.17a). Cũng chỉ cho những ‘giới
thuận với đạo’, thứ bậc trì giới nầy được xem là
‘phát sinh với đạo’ vì đây là chỗ thực chứng thứ
nhất của trí tuệ và bước vào cõi thánh (arya). Theo A Tỳ
Ðạt Ma Câu Xá (Abhidarmakosa, T29.72b), đây là giới cao nhất
trong ba giới của Tiểu Thừa, liên quan đến việc tu tập
của bậc thánh. Ðây là kết quả của thiền vô lậu (anasrava)
trong các cõi Sắc và Vô Sắc.
190
Theo Muranaka, p.133. Chan-jan (T46.191c9-10) nói: {Gọi là ‘bảo
toàn sự ứng hợp’ vì các pháp thành tựu không sai lầm.
Thần chú diệt ba điên đảo không sai lệch có nghĩa rằng
‘phù hợp’.
191
Bồ Tát Anh Lạc Bổn Nghiệp Kinh (Pu-sa ying-luo pen-yeh ching,
T24.1015a), mười pháp như sau: (1) thấy 12 như ngã, (2) tâm là
12, (3) 12 là vô minh, (4) 12 phát khởi trong nhau, (5) 12 giúp nhau
thành tựu, (6) 12 trong tam nghiệp (thân, khẩu, ý), (7) 12 trong
ba thời, (8) 12 trong ba loại khổ, (9) 12 như vô tự tánh, (10)
sinh khởi 12. Bản kinh không nói về ý nghĩa của mười pháp
nầy.
192
Chúng được biết là ba điên đảo (san-tao) bởi vì: (1) Gốc
rễ phiền não (klesa) tạo nghiệp, (2) nghiệp (karma), đưa đến
(3) khổ (duhkha) trong hình tướng liên quan với nhau. Khổ đi
vòng sinh ra phiền não khác. Như nói ở trên, chúng có từ
tam chướng (san-chang). Có thể nói rằng chúng là sự cô đọng
của vòng xích mười hai nhân duyên.
193
Sám hối thuận với lý tẩy xóa gốc rễ vô minh qua trí tuệ
thấy được tánh Không, vì sám hối qua sự tướng chỉ ảnh
hưởng trên những yếu tố thuộc hiện tượng và tiềm năng
hổ tương. (Ðọc Maha Chỉ Quán, T46.39c3-41c6). Các lập luận
xuất sắc của Trí Khải về các hình thức sám hối khác
nhau, đọc Thứ Ðệ Thiền Môn, T46.485b6-487a16.
194
Ðại Phương Ðẳng Ðà La Ni Kinh, T21.656b1-4, 26. Chan-jan (T46.191c6-7)
nói: {Người vi phạm những lỗi nặng nề là một kẻ đã
chết. Nhưng [sám pháp nầy] có thể mang sự thanh tịnh trở
lại cho người ấy và mang lại cho đời ý nghĩa của giới
luật. Nếu thực hành pháp sám hối đầy đủ thì không có
tội lỗi nào không thể ngăn ngừa được}.
195
KCLP, Phương Ðẳng Sám Pháp (T46.796b) trước hết làm xứng
hợp tam đảo với thập nhị nhân duyên. Theo đó, phiền não
hợp với [móc xích] thứ tám và chín (ái và thủ), nghiệp
hợp với [móc xích] hai và mười (hành và hữu), khổ hợp
với [móc xích] ba và bốn (thức và danh tướng) v.v ... Những
đoạn văn từ kinh sau đó theo đây mà gọi là tam chướng
thay vì tam đảo.
196
Xuất xứ đoạn văn nầy chưa tìm được thuộc kinh nào. KCPL,
Phương Ðẳng Sám Pháp (T46.796c) đưa ra một đoạn văn hoàn
toàn khác từ Ðại Phương Ðẳng Ðà La Ni Kinh (T21.645c2-7):
{Bất cứ ai khổ vì bệnh phong hủi, hãy nên nhất tâm sám
hối thì sẽ được cứu}.
197
Cùng chỗ, T21.653b-c.
198
Chan-jan (T46.192a 9-11), dẩn chứng ‘Ðại Trí Tuệ’ (Mahavibhasa)
nói rằng trong mười hai duyên khởi (pratiya-samupada), hai vòng
đầu tiên (từ quá khứ) có thể được nhìn là gốc cội
[cây] luân hồi, năm vòng kế tiếp (thuộc hiện tại) là thân
và nhánh, ba vòng kế tiếp (thuộc hiện tại) là hoa, và hai
vòng sau cùng (thuộc tương lai) là quả.
199
Từ ‘Ðại Phương Ðẳng Ðà La Ni Kinh’, T21.645b11-12.
200
Bản văn trong Maha Chỉ Quán, từ giữa câu thứ hai xuống đến
dòng cuối đoạn văn được rút ngắn cùng chỗ. T21.647c22-648a
16.
201
Cùng chỗ, T21.649a 16-20.
202
Pháp Hoa Tam Muội lấy tên và mặc khải từ kinh Pháp Hoa là
bản kinh lớn trong các kinh quanh các nghi thức lễ bái tề
chỉnh và dùng để chỉ dẩn lề lối nghi lễ (về nền tảng,
đọc Shioiri, Hokke sembo to shikan, pp. 307-336). Vào thời kỳ phôi
thai của Thiên Thai Tông, có hai môn căn bản được xem là
Pháp Hoa Tam Muội: môn thứ nhất là Pháp Hoa Sám Pháp (fa-hua
ch’an-fa) hoặc Phổ Hiền Sám Pháp (p’u-hsien ch’an-fa) là
nghi lễ kéo dài 21 ngày được bố cục cẩn trọng dựa vào
phẩm 28 (Phổ Hiền Khuyến Pháp) kinh Pháp Hoa, và ‘Quán Phổ
Hiền Bồ Tát Hành Pháp Kinh’ (Kuan p’u-hsien p’u-sa hsing-fa
ching, T no.277). Bản kinh sau được xem là nói rộng về phẩm
kinh cuối của Pháp Hoa) được ngài Pháp Tú (Dharmamitra) dịch
vào đầu thế kỷ thứ năm, cùng với một bản kinh khác được
cho là tương quan với Pháp Hoa là kinh ‘Vô Lượng Nghĩa’
đúng lúc nới rộng vùng [ảnh hưởng] của kinh Pháp Hoa.
Môn
thứ hai là đối với Pháp Hoa tam muội được biết là ‘An
Lạc Hạnh’ (an-le hsing), dựa vào phẩm thứ 14 của kinh Pháp
Hoa. Khác với nghi lễ sám hối 21 ngày, An Lạc Hạnh không
được bố cục [nhất định]- hình thức hoàn toàn uyển chuyển
và có thể kéo dài- và lối trình bày dành cho những hành
giả thượng căn là những người muốn nhẹ phần nghi thức,
chú trọng phần tu tập tam muội dài lâu.
Giới
học giả cho biết rằng Pháp Hoa / Phổ Hiền Sám Pháp đã
từng được tu tập rất nhiều trước và bên ngoài cộng
đồng Thiên Thai Tông; nhưng [lối thực tập nầy] thì đặc
biệt khác với nghi thức 21 ngày của Trí Khải và ‘An Lạc
Hạnh’ của tôn sư Trí Khải là ngài Tuệ Tư. [Pháp môn]
nầy lần đầu tiên được ngài Tuệ Tư nói đến trong ‘Pháp
Hoa Kinh An Lạc Hạnh Nghĩa’ (Fa-hua ching an-le hsing i, T46.700a
9-b8) cũng như trong ‘Pháp Hoa Tam Muội Sám Nghi, (T46.949c12 và
955b18-c4) của Thiên Thai Trí Khải- là hai tập luận trong thời
kỳ sơ khởi của Thiên Thai Tông, dẩn chứng từ Thiên Thai
Pháp Hoa Tam Muội. Rất nhiều bài giảng trong tác phẩm Maha
Chỉ Quán đặt trọng tâm vào [phương pháp] tu tập Pháp Hoa
tam muội từ hai tác phẩm nầy. Phần nói về Pháp Hoa tam muội
trong thời kỳ phôi thai của Thiên Thai Tông, đọc Stevenson,
The Four Kinds of Samadhi in Early T’ien T’ai Buddhism, pp.67-72.
203
Mười pháp căn cứ trực tiếp từ ‘Pháp Hoa Tam Muội Sám
Nghi’ của Trí Khải (từ đây gọi đơn giản là Sám Nghi
(Ch’an-i). ‘Sám Nghi’ được phân ra năm phẩm chính: Khuyến
tu, Phương tiện thiện xảo, Cách giữ nhất tâm chuyên chú
khi vào đạo tràng, Phương pháp thực hành nghi lễ, Làm sáng
tỏ những dấu hiệu thành tựu. Phẩm thứ tư, ‘Thực Hành’
lại chia làm mười mục đưa ra nhưng chi tiết căn bản về
cung cách, dáng vẻ, và lời thỉnh nguyện trong buỗi lễ. Mười
phương pháp đưa ra ở đây trong Maha Chỉ Quán hợp với mười
phương pháp trong phẩm ‘thực hành’ thứ tư, ngoại trừ
không có đề mục thứ 5 (Xưng tán Tam Bảo) của chánh bản
‘Sám Nghi’, và phẩm thứ năm ‘Làm sáng tỏ những dấu
hiệu thực chứng’ được đưa vào như đề mục thứ 10.
Ðọc T46.950a17-23; về bản dịch tác phẩm ‘Pháp Hoa Tam Muội
Sám Nghi’ của Thiên Thai Trí Khải, đọc Stevenson, The T’ien
T’ai Four Forms of Samadhi, pp.468-537.
204
Như với phương đẳng sám pháp, nghi thức thanh tịnh trước
hết là sơn quét, trải nước thơm, và dựng một bàn thờ.
Tuy nhiên, trong nghi lễ nầy không có tôn tượng của chư thiên,
chỉ một bản kinh Pháp Hoa được đặt trên bàn thờ [như
một đối tượng] để lễ bái. Ðọc Sám Nghi, T46.950a 27-29.
Áo tràng mới hoặc sạch được mặc trong đạo tràng. Trong
suốt bảy ngày trước khi cử hành buổi lễ, những người
tham dự phải thanh tịnh thân tâm, chuyên tâm, thực tập những
nghi thức, và ghi nhớ lời thỉnh nguyện. (Ðọc ‘Sám Nghi’,
T46.949c13-21 và 950b9-13).
205
Sự cúng dường thân, khẩu, và ý đối với tam bảo thường
trụ khắp pháp giới bằng phương tiện dâng hương và tưởng
niệm đã nói đến trong phương đẳng sám pháp ở trên (ghi
chú 166). Thường được đề cập đến trong giáo lý Thiên
Thai Tông như ‘tam nghiệp cúng dường’, thể thức nầy có
nói rõ trong Sám Nghi (T46.950b14-c3): Bắt đầu với thắp hương,
một tay nâng bát hương, miệng xưng tán và lễ lạy tam bảo
thường trụ khắp mười phương. Như ‘Quán Phật tam muội
hải kinh’ (Kuan fo san-mei hai ching, T15.695a), khi cất lời xưng
tán, cúng dường theo khói hương, phảng phất khắp mười
phương Phật quốc. Ở đó mưa pháp ban bố cho muôn vạn chúng
sinh. Ðọc KCPL, Phương Ðẳng Sám Pháp (T46.797b6-12), KCPL, Kinh
Lễ Pháp (Ching li-fa, T46.794a3-6), KPLC, Thỉnh Quán Thế Âm Sám
Pháp (Ch’ing kuan-shih-yin ch’an-fa, T46.795c7-12), và Maha Chỉ
Quán (T46.13b15, 14c28-29)
206
Như trong Phương Ðẳng Sám Pháp (T46.797b) và Thỉnh Quán Thế
Âm Sám Pháp (T46.795b-c) cung thỉnh tam bảo tại đạo tràng
dưới hình thức đặc biệt- tức Phật, Pháp và Tăng thời
Pháp Hoa (đọc Sám Nghi, T46.950c-951b).
207
Chư thiên trong buỗi lễ (biểu tượng của tam bảo) được
cung thỉnh qua ba cách xưng tán, lễ lạy, và đồng thời tưởng
niệm như chư vị ứng hiện. (Ðọc Sám Nghi, T46.951b-952b).
Sám Nghi, (cũng như hầu hết nghi lễ của Thiên Thai Tông) bắt
đầu nghi lễ với lời xưng tán chư Phật. Ðọc Sám Nghi (T46.951b),
và KCLP, Kinh Lễ Pháp (T46.794a 26), KCPL, Phổ Lễ Pháp (T46.795a
22), KCPL, Phương Ðẳng Sám Pháp (T46.797b18-20).
208
Tụng đọc sáu đoạn văn sám hối tổng quát các tội lỗi
sáu căn đã phạm (trích từ kinh ‘Quán Phổ Hiền’, T9.391c-392c).
Theo bản kinh (T9.391a 1-5) pháp sám hối nầy khiến ‘sáu căn
được thanh tịnh’ (liu ken ch’ing-ching) là chỗ mà Thiên
Thai Tông nói rằng tương đương với quả vị Thập Tín hoặc
Tương Tự Tức (đỉnh thánh vị và bất thoái chuyển) của
Viên Giáo. ‘Sám Nghi’ (T46.952b-953b) xếp chung sám hối với
bốn đề mục khác vào một thứ tự gọi là ‘Ngũ Hối’
(wu-hui) của Thiên Thai Tông: sám hối, khuyến thỉnh, tùy hỉ,
hồi hướng, và phát nguyện.
209
Ðọc Sám Nghi, T46.953b29-c16. Ðọc tụng kinh Pháp Hoa trong khi
đi nhiễu quanh.
210
Theo Sám Nghi, T46.953c-954a, có thể tụng đọc một phẩm An
Lạc Hạnh nếu hành giả không thuần thục kinh Pháp Hoa. Có
thể tụng đọc kinh vào lúc ngồi yên tịnh sau khi đi nhiễu
quanh.
211
Cùng chỗ, T46.954a-b. Sám Nghi cho rằng giai đoạn đi nhiễu
quanh và ngồi yên tịnh cũng như tư duy và đọc tụng kinh,
có thể tùy theo khả năng và tâm trí của hành giả.
212
Thay vì là một phần trong nghi lễ, ‘phân định những dấu
hiệu thành tựu’ chỉ cho phẩm thứ năm sau cùng của Sám
Nghi (T46.954b-955c) , trong đó những hình thái khác nhau từ nghi
thức được phân loại thành ba bậc.
213
Ðược hiểu là Pháp Hoa Tam Muội Sám Nghi, T no. 1941 thực sự
do Trí Khải viết. Tuy nhiên, một [tài liệu] Taisho gần đây
(và giới có thẩm quyền Trung Hoa) vớí tựa đề ‘Pháp Hoa
Tam Muội Sám Nghi’ đưa ra một lập luận rằng tác phẩm
nầy được soạn và lưu hành bởi ngài Tuân Thức (Tsun-shih)
(964-1032) vào thời Bắc Tống. Bài bình luận đặc sắc về
tác phẩm nầy, đọc Sato, Tendai daishi no kenkyu, pp.127-151.
214
Luận về đề mục Chỉ và Quán đối với Ý, Chan-jan (T46.192b21-22)
ghi chú: {Hành giả cũng nên nói rằng Chỉ và Quán tâm cũng
liên quan đến [những nghiệp khác của thân và khẩu]. Phần
lưu thông riêng biệt [của Sám Nghi] [luận về pháp quán] được
nghiên cứu trên nền tảng bốn mặt. Vì thế, [Trí Khải]
khai triển pháp quán nầy qua [biểu tượng của] một con voi}.
215
‘Quán Phổ Hiền Bồ Tát Hành Pháp Kinh’, T9.389c. Nội dung
đoạn văn ghi lại trong kinh như sau: {Nầy A Nan, nếu có tăng
ni, cư sĩ nam nữ, trời, rồng, tám loài phi nhân, hoặc bất
cứ chúng sinh tụng đọc kinh điển Ðại Thừa, hành pháp
Ðại Thừa, và sinh tâm Ðại Thừa; nếu người ấy muốn
thấy được thân tướng của Bồ Tát Phổ Hiền, tháp Phật
Ða Bảo, Phật Thích Ca Mâu Ni và những hóa thân của vị Phật
nầy; nếu người ấy muốn sáu căn thanh tịnh- thì nên học
pháp quán nầy, là pháp mà công đức có thể san bằng chướng
ngại, khiến người ấy thấy được thân vi diệu của Bồ
Tát Phổ Hiền. Mặc dù chưa vào được tam muội, nhưng vì
tụng đọc và ghi nhớ kinh điển Ðại Thừa, không dừng quy
hướng từng tâm niệm, không để cách biệt vớí Ðại Thừa,
từ một ngày cho đến ba-lần-bảy-ngày, người ấy sẽ thấy
được Bồ Tát Phổ Hiền.}
216
Ðọc ‘Quán Phổ Hiền Bồ Tát Hành Pháp Kinh’, T9.390c27-319a5.
Sáu sám pháp được ghi lại trong những trang sau.
217
T9.37a. Câu văn bỏ lững được đọc như sau: {Nhưng nhìn tất
cả các pháp với thực tướng của chúng}. Ðọc Hurvitz, p.
208.
218
Muranaka (p.135) cho rằng câu văn nầy có nghĩa: {Hai bản kinh
phụ lục hoặc làm đầy đủ cho nhau}. Trí Khải nhìn ‘Quán
Phổ Hiền Bồ Tát Hành Pháp Kinh’ như một bản kinh chính
nằm trong vùng ảnh hưởng của Pháp Hoa; như vậy có thể
là một lối giải thích trực nghĩa.
219
Hai đoạn văn trước được ngài Tuệ Tư đưa ra như căn bản
khác biệt giữa ‘vô tướng an lạc hạnh’ (chánh hạnh)
và ‘hữu tướng an lạc hạnh’ (qua nghi thức 21 ngày Pháp
Hoa sám pháp). Ðọc Pháp Hoa An Lạc Hạnh Nghĩa ( T46.700a 18-b7).
Hẳn nhiên là có những lối nhìn khác nhau trong cộng đồng
Thiên Thai Tông đối với vai trò của hai pháp môn nầy; sau
cùng Trí Khải và Quán Ðảnh đi qua nhiều lãnh vực để kết
hợp vào những câu văn theo sau.
220
Pháp Hoa, T9.37a; Hurvitz, p.208.
221
Pháp Hoa, T9.38a; Hurvitz, p.216.
222
Quán Phổ Hiền Bồ Tát Hành Pháp Kinh, T9.392c. Ðây là từ
một đoạn kinh nổi tiếng: {Tội lỗi là gì? Phước hạnh
là gì? Vì tâm người chính nơi đó là Không, tội và phước
không có chủ thể. Tất cả các pháp khác cũng đều như vậy:
chúng không trụ, không diệt. Một sám pháp như vậy- trong
đó hành giả quán tâm không có tự thể, và những pháp khác
không trụ trong chính chúng, nhưng thấy rằng tất cả các
pháp đều buông xả, là diệu lý tịch diệt- đây gọi là
đại sám hối, một sự sám hối trang nghiêm huyền vi, một
sự sám hối thoát ra tất cả các tướng của tội lỗi, một
sự sám hối phá vỡ tâm và thức}.
223
Cùng chỗ, T9.393b.
224
Trong Sám Nghi (T46.949c5-946a 15, và 955b-c) Trí Khải giới thiệu
sự khác biệt giữa ‘phát huy nhất tâm kiên trì trên căn
bản sự (shih) và nhất tâm kiên trì trên căn bản lý (li)’,
theo đó đề mục nầy được đưa ra. Sám Nghi cẩn thận ghi
rằng cả hai phương pháp có thể được áp dụng cho nghi thức
21 ngày Pháp Hoa sám pháp, tùy thuộc vào khả năng của hành
giả. Tuy nhiên, hạnh an lạc càng uyển chuyển thì càng đi
thẳng vào lý quán.
225
Tôn giả Tuệ Tư, ‘Pháp Hoa Kinh An Lạc Hạnh Nghĩa’ (Fa-hua
Ching an-le hsing i / T46.700a 18-b7) nói: {Vô tướng hạnh (wu-hsiang
hsing) không gì hơn là an lạc hạnh (an-le hsing) [của kinh Pháp
Hoa]. Trong khi giữa các pháp, [hành giả quán tưởng rằng]
tánh của tâm thì tịch diệt, tuyệt đối không sinh khởi.
Vì lý do nầy nên gọi là ‘Vô Tướng Hạnh’. Hành giả
luôn đi sâu vào tất cả những hình thái định thâm vi, vì
trong những oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm, an, nói ... tâm tôn
giả đều trụ trong tam muội. Bởi vì không có cái tâm bềnh
bồng nào cả, nên gọi là vô phân biệt hạnh ... Hơn nữa,
có loại tu tập tương ưng với sắc tướng, như đọc tụng
kinh Pháp Hoa, và cố gắng [hàng phục] cái tâm tán loạn như
được dạy trong phẩm ‘Phổ Hiền khuyến phát’. Một người
tu tập phương pháp nầy, chẳng tu định, chẳng nhập tam muội.
Hoặc ngồi, hoặc đứng, hoặc đi, người ấy đều tập trung
vào hai chữ Pháp Hoa, và nhất tâm trì niệm không nằm xuống
ngơi nghỉ, ví như người ấy biết có đốm lửa đang cháy
trên đầu. Ðây gọi là lối thực hành tương ưng với tướng
[được nói] trong bản văn.}
226
Theo Chan-jan, T46.192c14-17.
227
Biểu tượng của ngài Phổ Hiền trình bày dưới đây trích
từ một đoạn trong ‘Quán Phổ Hiền Bồ Tát Hành Pháp Kinh’
(T9.389c-390a): {Với tuệ lực, Bồ Tát Phổ Hiền trên voi trắng
sáu ngà và bảy chân hiện thân trước hành giả. Dưới bảy
[bàn] chân nở bảy cánh sen. Voi trắng ngần trong hơn pha lê
hoặc [đỉnh tuyết] Hy Mã Lạp Sơn, thân lớn 450 do tuần,
cao 400 do tuần. Ðầu mỗi cái vòi là một ao nước, trổ những
cây hoa trời (parijata). Trong mỗi đài hoa có một thiếu nữ
diễm lệ dáng vẻ tươi sáng hơn một thần nữ, với năm
cây đàn thụ cầm thần biến trong hai tay, và năm trăm nhạc
cụ theo với mỗi cây đàn ... Trên đầu voi trắng có ba thần
nam: một người cầm trong tay một chiếc luân bảo bằng vàng,
một người cầm ngọc bích, và một người cầm gậy kim cương
dùng để điều khiển voi. Voi không bước trên đất nhưng
bảy chân bước giữa hư không, mỗi dấu chân có hàng ngàn
luân tướng vi diệu. Giữa mỗi luân tướng có một hoa sen
lớn, và từ mỗi hoa sen lại hóa hiện ra một voi khác với
bảy chân, đi theo voi đầu tiên, khiến từng bước đi có
bảy ngàn voi khác theo sau như quyến thuộc ... Trên lưng voi
là một vị Bồ Tát ngồi kiết già dáng hoa sen, hiệu là Phổ
Hiền, thân tướng trong sáng như ngọc ... với hào quang tỏa
ngời từ mỗi lổ chân lông trên thân.}
228
Sáu thần thông vô lậu.
229
Shiki (1.493) trích từ kinh Duy Ma Cật (T14.549c) là xuất xứ
của đoạn nầy: {Nước tịnh đổ đầy ao nước tám giải
thoát}. Tám giải thoát chỉ cho tám loại thiền định phù
hợp với tứ thiền và tứ vô tướng tam ma địa (samapatti).
230
Diệu nhân là đại hạnh của Bồ Tát Viên Giáo. Như được
nói trong tác phẩm ‘An Lạc Hạnh’ của tôn giả Tuệ Tư
(T46.698b-c) và ‘Pháp Hoa Huyền Nghĩa’ của Thiên Thai Trí
Khải (T33.682b, 771c-774c), đài hoa tượng trưng nhân và quả.
Trong Viên Giáo, nhân và quả đồng thời, không phải trước
sau. Nền tảng tu hành thuộc nhân, đồng thời là quả giải
thoát.
231
Tứ nhìếp pháp (samgraha-vastuni) là những phương pháp hàng
phục chúng sinh và đưa về giác ngộ, gồm có: Bố thí (dana),
cho chúng sinh cái họ muốn, hoặc là tài vật, hoặc là giáo
lý; ái ngữ (priya-vadita) hướng dẩn tâm chúng sinh bằng lời
và ý; lợi hành (artha-carya) làm phát sinh thiện hạnh của
chúng sinh qua thân, khẩu, và ý; đồng sự (samanarthata) hướng
dẩn chúng sinh hành xử giống như người hướng dẩn hành
xử.
232
Phổ-hiện-sắc-thân-tam-muội (P’u-hsien se-shen san-mei) thường
được hiểu như một sự thị hiện siêu việt trong câu chuyện
của nhiều vị Bồ Tát trong kinh Pháp Hoa. Ðọc Hurvitz, pp.294,
307-309, cũng như ‘Quán Phổ Hiền Kinh’. Tdusa Sokichi, trong
phần luận về Pháp Hoa tam muội, đã nhìn như một biểu đồ
tương nhập tam đế, và thần lực phổ độ là quả [vị]
của Thiên Thai Viên giáo và Pháp Hoa Tam Muội. Ðọc Tdusa Sokichi,
Chigi no hokkezammai.
233
Quán Phổ Hiền Bồ Tát Hành Pháp Kinh, T9.390c, nói: {Sau khi
thực hành phương pháp nầy ngày và đêm suốt ba lần bảy
ngày, hành giả sẽ chứng được văn trì đà la ni. Với đà
la ni nầy, người ấy sẽ ghi nhớ và không quên pháp được
nghe từ chư Phật và chư Bồ Tát}. Phẩm ‘Phổ Hiền’ trong
kinh Pháp Hoa cũng nói tương tự: {[Thấy được Ta] người
ấy liền chứng được tam muội và đà la ni có tên là văn
trì đà la ni.}(Hurvitz, p.333).
Thiên
Thai Trí Khải, khi giải thích về đoạn kinh Pháp Hoa nầy trong
‘Sám Nghi’ đã nói: {Ðà la ni là đại trí tuệ, vì khi chứng
đắc đại trí nầy, hành giả có thể duy trì không bao giờ
quên, và hiểu được không chướng ngại bất cứ những gì
Phật thuyết ra}.
234
Tất cả mọi người nam nữ trong cộng đồng Phật giáo: tỳ
khiêu, tỳ khiêu ni, người mới xuất gia, cư sĩ, và siksamanas
(người nữ mới xuất gia).
235
Quán Phổ Hiền Bồ Tát Hành Pháp Kinh, T9.393c6-7.
236
Cùng chỗ, T9.389c7-9.
237
Cùng chỗ, T9.389c19-20.
238
Cùng chỗ, T9.391a 12.
239
Cùng chỗ, cả hai đều có ở T9.393b20-21.
240
Cùng chỗ, T9.389c.
241
Cùng chỗ, T9.393b12.
242
Loại thứ tư ‘phi hành phi tọa’ không có ý như một sự
phủ nhận hành và tọa, nhưng được đưa ra để đầy đủ
bốn phương pháp có thể thành lập trên căn bản của hai
lối ‘hành’ và ‘tọa’.
243
Tôn giả Tuệ Tư soạn một tập sách tựa đề ‘Tùy Tự
Ý Tam Muội’ (Sui- tzu-i sam-mei / HTC 98) vẫn còn lưu truyền
đến ngày nay. Thời điểm tôn giả biên soạn tập sách nầy
được nói trong sato, Zoku Tendai daishi no kenkyu, pp.241-268. Sơ
lược về nội dung tập sách và sự tương quan với ‘phi
hành phi tọa tam muội’, đọc Stevenson, The Four Kinds of Samadhi
in Early T’ien T’ai Buddhism, p. 75.
244
Giác Ý Tam Muội (bodhyanga samadhi) được ghi là tam muội thứ
72 trong số 108 Ðại Thừa tam muội trong bản dịch ‘Maha Bát
Nhã Ba La Mật Kinh, T8.251b) của ngài Cưu Ma La Thập. ‘Giác
Ý’ là hai chữ được dùng phổ thông (trước thời ngài
Huyền Trang) để chỉ cho ‘thất giác chi’, tức Niệm, Trạch
pháp, Tinh tấn, Hỉ, Khinh an, Ðịnh, và Xả. Những hiệu đính
khác nhau trong văn tự Trung Hoa và Phạn (Pancavimsati) giải thích
rằng {‘Giác Ý tam muội’ là một tam muội trong đó tất
cả tam muội tựu thành bảy nhánh giác ngộ (bodhyanga), và
hành giả đến được chỗ viên mãn}. Ðọc Ðại Bát Nhã
Ba La Mật Ða Kinh, T7.76b18-20; Quang Tán Bát Nhã Kinh (Kuang-tsan
pan-jo ching / T8.192a). Các kinh luận Trung Hoa, Ðại Trí Ðộ
Luận (T25.401a 25-27), hoàn toàn xác định lối giải thích nầy:
{Trụ trong tam muội nầy hành giả có thể đến được tất
cả những tam muội vô lậu và đưa chúng về chỗ tương ứng
với bảy nhánh giác ngộ, như một chin khoáng vật shih-han
có thể đổi thành một ngàn chin đồng thành vàng.}
Thiên
Thai Trí Khải vào khoảng thời gian đầu hoặc giữa cuộc
đời hoằng hóa của tôn giả, có soạn một quyển ‘Thích
Maha Bát Nhã Ba La Mật Kinh Giác Ý Tam Muội’ (Shih Mo-ho pan-jo
p’o-lo-mi ching chueh-i san-mei / T no. 1922; về sau gọi tắt là
Giác Ý Tam Muội). Tác phẩm nầy rút [yếu chỉ] từ tác phẩm
‘Tùy Tự Ý Tam Muội’ (Sui-tzu-i san-mei) của tôn sư Trí Khải
là ngài Tuệ Tư, quay sang phát triển và đi vào những tác
phẩm khác như ‘Tiểu Chỉ Quán’ (Hsiao Chih-kuan) và ‘Maha
Chỉ Quán’ (Moho Chih-kuan). Những khái niệm vén khéo cũng
như những đoạn văn chính trong đề mục ‘phi hành phi tọa’
của Maha Chỉ Quán, đều từ tác phẩm ‘Giác Ý Tam Muội’
mà nói ra. Những sửa chữa không phải do Thiên Thai Trí Khải
làm, mà do Quán Ðảnh trong thời gian tôn giả hiệu đính Maha
Chỉ Quán. Phần luận về ngày tháng, tác giả, và ảnh hưởng
của ‘Giác Ý Tam Muội’, đọc Sato, Tendai daishi no kenkyu,
pp. 173-189. Về phương pháp định mô tả trong tác phẩm, đọc
Stevenson, The Four Kinds of Samadhi in Early T’ien T’ai Buddhism,
pp. 75-84.
245
Không kể ý nghĩa minh bạch của chữ bodhyanga (giác ý) đã
trở nên quen thuộc với Trí Khải (đọc Giác Ý Tam Muội,
T46.621c23-622a 9)- ở đây Trí Khải đưa ra một ý nghĩa của
hai của ‘giác ý’ tách biệt với những ý nghĩa thường
được hiểu qua kinh luận (như Ðại Trí Ðộ Luận). Chữ
‘giác’ và chữ ‘ý’ được Trí Khải sử dụng như động
từ, từ đó giải thích [bốn chữ] ‘giác ý tam muội’ trong
đường lối thích ứng với ‘Tùy Tự Ý Tam Muội’ của
tôn sư Trí Khải là tôn giả Tuệ Tư. Tại sao Trí Khải lại
thay hai chữ ‘giác ý’ vào các chữ ‘tùy tự ý’ để
trở thành tên gọi ‘giác ý tam muội’ thì vẫn còn là một
việc bí ẩn. Tuy nhiên, có thể là vì Trí Khải thấy rằng
[những gì tôn giả viết xuống] trong ‘Giác Ý Tam Muội’
và Pancavimsati dựa vào căn bản kinh điển trong việc thực
hành, trong khi ‘Tùy Tự Ý Tam Muội’ gần với ‘Thủ Lăng
Nghiêm Tam Muội’.
246
‘Ðiều phục, tu sửa, và kiên trì’. Ðọc Maha Chỉ Quán,
T46.11a 25-26.
247
Bốn đặc tính mô tả trong ‘fan-chao kuan-ch’a’ chúng tôi
định nghĩa là ‘phản chiếu và quán sát’ có một ý nghĩa
cực kỳ quan trọng thường thấy trong những tác phẩm nói
về định của Trí Khải và tôn sư là tôn giả Tuệ Tư. Phản
chiếu, nghĩa đen là ‘quay trở lại và làm sáng tỏ’ hoặc
‘quay ngược lại sự chiếu soi của hành giả’ mang ý nghĩa
sơ nguyên quay về nguồn cội hoặc lật ngược dòng suối
trược của tâm tư ô nhiễm đã tạo nên những sự có mặt
từ mê lầm.
Thiên
Thai Trí Khải viết những dòng đầu tiên trong tác phẩm ‘Giác
Ý Tam Muội’ (T46.621a 10-12) của tôn giả như sau: {Những ai
muốn vượt bờ sinh tử và đến với Niết Bàn thì phải
thấu triệt gốc cội của ảo vọng và thực chứng những
yếu tính để đạt đạo. Gốc cội mê vọng chính nó là
chân thực tại của tâm. Những yếu tính đạt đạo là cái
chúng tôi gọi là ‘phản chiếu’ nguồn tâm.}
Nhắc
lại, trong phần luận về ‘tâm thiện trụ trong sự thực
tập Chỉ và Quán’ của Trí Khải, đề mục thứ ba trong
mười đề mục quán chiếu thấy trong nội dung Maha Chỉ Quán-
Trí Khải (T46.56b24-28) nói: {Khi quay về cội, trở lại nguồn
thì pháp giới [được thấy là] toàn tịnh. Ðây là cái chúng
ta gọi là ‘Chỉ’. Khi hành giả tu tập ‘Quán’ theo đường
lối nầy, tất cả dòng mê vọng sinh khởi của tâm tư đến
chỗ dừng lại. Khi ‘quán chiếu’, hành giả tư duy rằng,
từ chỗ sơ nguyên, tâm vô minh hoàn toàn tĩnh lặng với pháp
tánh, và, vốn rỗng lặng. Cũng không khác, tất cả những
ý tưởng mê mờ và những [hành động] tốt xấu đều như
hư không- bất nhị và không thể phân ly.
Ðiều
mà Trí Khải và tôn sư của Trí Khải là Tuệ Tư muốn lộ
bày qua [hai tác phẩm] ‘Giác Ý Tam Muội’ và ‘Tùy Tự Ý
Tam Muội’ (và ám chỉ qua những tác phẩm nói về tứ tam
muội) là ‘quay trở lại phản chiếu nguồn tâm’ để tu
tập, và ‘bất cứ và tất cả cảnh giới đều có trong
một niệm’.
248
Tam vị nhất thể Tâm-Ý-Thức (Citta-mano-vijnana) mà Thiên Thai
Trí Khải đưa ra ở đây là một thể thức có cái dụng thâm
sâu trong truyền thống Phật giáo từ xưa. Vì rằng tự lâu
xưa, tâm và thức trở thành một vấn đề khó tìm được
một lối giải thích khả dĩ từ truyền thống Phật giáo
Ấn Ðộ. Tuy nhiên, nói một cách tổng quát. Manas (ý) trình
bày ‘tâm thức’ hoặc ‘ý căn’ hòa hợp năm thức khác
làm đối tượng của các pháp thuộc về ‘tâm’ phát sinh
từ hành động. Vijnana (thức) phát khởi khi căn gặp cảnh.
Ý
nghĩa của ba danh từ nầy càng trở nên mơ hồ phức tạp
với chữ hsin (tâm), i (ý), và shih (thức) trong ngôn từ Trung
Hoa. Không nghi ngờ rằng Trí Khải đã mượn những tên gọi
nầy vì chúng được dùng rất phổ thông vào thời Trung cổ
ở Trung Hoa, nhưng tôn giả đã đưa chúng về với mục tiêu
đặc thù của riêng mình. Chan-jan, trong phần chú giải về
đoạn văn nầy, nhấn mạnh ý nghĩa mơ hồ bằng cách đưa
ra bốn lối giải thích khác nhau. Chan-jan (T46.193a 26-b3) nói:
{Có người nói rằng [Sự phản chiếu] thuộc quá khứ diễn
đạt ‘hành động nhận thức’ hoặc ‘ ý’ (i), [sự phát
khởi của tư tưởng] vị lai diễn đạt tâm (hsin), và hiện
tại diễn đạt thức (shih). Có người lại nói rằng ‘tâm’
được giải thích trong tương quan với dhatu, ‘ý’ trong tương
quan với ayatana, và ‘thức’ trong tương quan với skandha.
Cũng có người cho rằng hình tướng diễn đạt tâm, vì sáu
cõi thọ sinh từ tâm mà có. Sự cột dính là ý, như năm căn
kia có sẳn trong ý (manas). Khẩu và ý diễn đạt thức, vì
sự phân biệt là sản phẩm của thức. Kosa nói: {Nhân duyên
thì gọi là tâm. So lường là ý. Phân biệt là thức (T29.21c).
Tuy nhiên, tất cả những lối giải thích nầy đều từ truyền
thống Tiểu [Thừa]. Cả ba là một tuy khác tên gọi. Vì vậy
nên bản văn ở đây giải thích rằng hành giả không nên
vướng víu [vào bất cứ lối nào] là cố định, hoặc là
cho rằng chúng là ba, là một, là hội tụ hoặc là phân tán.}
249
Giác Ý Tam Muội (T46.621c8-9) đọc là: {Chỗ nầy đưa ra sự
phân biệt giữa tâm, ý, và thức. Nếu nắm giữ những phân
biệt như vậy, hành giả sẽ rơi vào sự hư hỏng của tâm,
sự hư hỏng của ý, và sự hư hỏng của thức}.
250
Giác Ý Tam Muội và Maha Chỉ Quán có những đặc tính ‘Tụ’
hoặc ‘Tán’ đảo ngược ở đây. ‘Không’ và ‘Hữu’
cũng đảo ngược như vậy trong những dòng theo sau. Qua nội
dung đoạn văn trong cả hai trường hợp, dường như Maha Chỉ
Quán có tính cách luận lý hơn. Ðọc T46.621c15-16.
251
Những điểm quan trọng Thiên Thai Trí Khải dùng trong những
lập luận của Ðại Sư có thể tô đậm con đường Trung
Luận (Chung-lun) của Long Thọ Bồ Tát về đồng và biệt.
Ðọc phẩm I ‘Nhân Duyên’ và phẩm VI ‘Ái Dục và Tham
Nhiễm Ái Dục’ (T30.8a-c); về ‘Hợp’ và ‘Tan’, đọc
phẩm VI và VII ‘Ba Tướng’ (T30.9a-12b).
Chan-jan
(T46.193b15-24) nói: {Chối bỏ ba tên gọi và những phân biệt
của chúng như lầm lạc, hành giả nên quán sát bản tính
vượt trên cấu kết của sắc tướng. Vì lý do nầy, khi bản
văn nói ‘không có mặt hoặc hiện hữu’ trong bất cứ chỗ
nào trong sáu dòng nầy đều có nghĩa rằng chúng tức thể
tánh. Khi nói ‘không vắng mặt hoặc bất hữu’ có nghĩa
rằng khác tên gọi. Xa hơn, hành giả không được vướng
víu vào danh, thể, đồng, hoặc dị. Vì vậy đều bao gồm
‘không là một chúng ta nói là ba’, ‘không là ba chúng ta
nói là một’. Phần còn lại, về ‘tụ’ và ‘tán’, có
thể được hiểu tương tự. [Bản văn] từ câu ‘nếu hành
giả biết được rằng danh tức vô danh’ cùng chứa đựng
sáu loại mà trong cách thức uyển chuyển, nhắc lại điểm
nầy. Sáu loại đều có hiệu quả cùng phế bỏ cùng chiếu
soi (shuang-fei shuang-chao) [hai đối cực]. Kết cấu giả lập
và thể tánh, cả hai đều không thể nắm giữ. Nếu hành
giả dùng đoạn văn nầy để thành lập tam quán, bỏ một
lấy ba, thì là biểu hiện cái Giả. Bỏ ba mà thuyết một
thì đó là Không. Thành tựu danh tức vô danh, tánh tức vô
tánh, thì đó là Trung Ðạo. Năm phần còn lại có thể được
hiểu tương tự. Nếu, qua con đường đã vẽ ra nầy, hành
giả vào được bổn tánh của tâm, thì đã thành lập được
diệu cảnh của tam đế bất tư nghị [là đối tượng của
pháp quán viên mãn]}.
252
Chan-jan (T46.193b25-8) nói: {Pháp quán của Viên [giáo] không những
quán niệm hoặc ý như nền tảng của các pháp mà còn hủy
diệt cội gốc vô minh và ô nhiễm. Vì vậy hành giả phải
biết rằng không những niệm hoặc ý bao gồm [tất cả các
pháp], nhưng ý chính nó tức vô minh. Khi vô minh bị điều
phục, tất cả ô nhiễm an tại (an-tsai)}. Như Kogi đã tiếp
tục đưa ra, Tâm có thể được nhìn đồng với Pháp Thân
(dharmakaya), tức chân như, và đồng với ô nhiễm là cái làm
chướng ngại. Hiểu được cái Tức đồng thời nầy thì
chứng được đạo và hàng phục được vô minh. Như vậy,
chân lý và vô minh là một ‘điều’, một ‘sự kiện’,
một ‘pháp’ có hai tên gọi.
253
Giác Ý Tam Muội (T46.621c21) đọc như sau: {Vì vậy chúng ta
dùng sự tĩnh giác của niệm và ý để làm sáng tỏ tam muội
nầy}.
254
Cùng chỗ, T46.622b19.
255
‘Giác Ý Tam Muội’ của Trí Khải tại điểm nầy đưa ra
một giải thích thứ hai về tên gọi của tam muội, là lối
giải thích thấy trong Pancavimsati và Ðại Trí Ðộ Luận. Chỗ
nầy cho thấy rằng tôn giả chỉ cho chúng ta Giác Ý Tam Muội
là Bồ Ðề Tam Muội (bodhyanga samadhi) giúp hành giả vào được
các tam muội khác với bodhyanga hoặc thất Bồ Ðề phần.
Ðọc T46.621a 23-622b23.
256
Nói cách khác, nếu một đường lối tu tập đưa ra không
giống với những tác dụng của thân như thường tọa, thường
hành, hoặc bán hành, bán tọa.
257
‘Thỉnh Quán Thế Âm Bồ Tát Tiêu Phục Ðộc Hại Ðà La
Ni Kinh’ (Ch’ing kuan-shih-yin p’u-sa hsiao-fu tu-hai t’o-lo-ni
ching / T no. 1043), còn gọi tắt là ‘Thỉnh Quán Thế Âm Kinh’.
Kinh ‘Thỉnh Quán Thế Âm’ là mật kinh được đưa vào Trung
Hoa bởi một cư sĩ người Ấn là Nan Ðề (Nandin) đời Ðông
Tấn (317-420). Nghi lễ diễn tả ở đây được biết là ‘Thỉnh
Quán Âm Sám Pháp’ (chi’ng kuan-yin ch’an-fa) trong truyền thống
Thiên Thai Tông, tên gọi nầy xuất xứ từ tên kinh. Hai cẩm
nang khác nhau về nghi lễ nầy được lưu truyền trong cộng
đồng Thiên Thai Tông sơ thời. Tập thứ nhất- ‘Thỉnh Quán
Âm Sám Pháp’ ghi trong mục 4 KCPL (T46.795b16-796a3), (từ đây
sẽ ghi là ‘KCPL, Thỉnh Quán Âm Sám Pháp’). [Tập sách nầy]
đưa ra một diễn tả cô đọng về nghi lễ, cung thỉnh, sám
hối, và tụng đọc là trọng tâm của Quán Âm Sám Pháp. Pháp
quán chiếu được nói đến nhưng không mô tả chi tiết. Tập
sách thứ hai đã thất lạc, không còn lưu hành, nhưng phần
mục lục còn thấy ghi lại trong ‘Thỉnh Quán Âm Kinh Sớ’
(Ch’ing kuan-yin ching shu / T39.973a 19-23) là một tập chú giải
‘Thỉnh Quán Âm Kinh’ (Ch’ing kuan-yin ching). Cùng với những
chi tiết về nghi thức [sám hối] như trong tập sách thứ nhất,
tập thứ hai nầy nói về thiền tọa trong một mục chánh.
Cả hai tập sách đều được tin là do Trí Khải biên soạn.
Ðọc Sato, Tendai daishi no kenkyu, pp.504-508.
Chan-jan
(T46.193c20-24) đề cập đến cả hai tập sách KCPL Thỉnh Quán
Âm Sám Pháp cũng như tập ‘cựu’cẩm nang thú hai, nhưng
vì tôn giả chỉ được biết tập nầy qua ‘Thỉnh Quán Âm
Kinh Sớ’, thì hẳn rằng tập sách đã thất truyền trước
thời tôn giả. Tập sách thứ ba về sám hối bằng cách xưng
tán danh hiệu Bồ Tát Quán Âm xuất hiện trể hơn, do ngài
Tuân Thức (Tsun-shih), một bậc thầy thuộc Thiên Thai Tông
biên soạn vào đời Tống, khi tôn giả phục hồi [hệ thống]
nghi lễ vào thế kỷ thứ 11. Những phụ bản của tôn giả
theo cách cấu trúc của KCPL, Thỉnh Quán Âm Sám Pháp, với
những chi tiết từ tác phẩm sâu sắc của Trí Khải là ‘Pháp
Hoa Tam Muội Sám Nghi’ (Fa-hua san-mei ch’an-i). Ðọc ‘Thỉnh
Quán Thế Âm Tiêu Phục Ðộc Hại Ðà La Ni Tam Muội Nghĩa,
T no. 1040).
Một
tác phẩm liên quan đến Quán Âm Sám Pháp, và chỗ đứng của
tác phẩm nầy trong truyền thống Thiên Thai Tông đã được
nói đến ở phần trên là tác phẩm ‘Thỉnh Quán Âm Kinh
Sớ’. Tập sách nầy (đặc biệt phần luận về lực hoạt
dụng của ba đà la ni trong kinh) trở nên một nguồn gốc quan
trọng đối với thuyết hạnh tà (hsing e) có sẳn trong Phật
tánh mà tôn giả Tứ Minh Tri Lễ (Ssu-ming Chi-li / 960-1028) đã
khai triển vào đời Tống. Mặc dù loạt sách sau ‘Thỉnh
Quán Âm Kinh Sớ’ được tin rằng do Trí Khải soạn, những
học giả hiện nay lên tiếng phản đối quan niệm nầy, và
đưa ra những chứng cớ rằng rất có thể do môn đồ của
tôn giả là ngài Quán Ðảnh biên soạn. Về những luận cứ
nầy, đọc Ando, Tendai-gaku, pp.330-356 và Sato, Tendai daishi no
kenkyu, pp.475-516; Sato, Sho’o shoso no soshosa wa Chigi ka Kanjo ka?;
và Sato, Zoku Tendai daishi no kenkyu, pp.411-428.
258
‘KCPL, Thỉnh Quán Âm Sám Pháp’ nói thêm rằng nghi lễ nên
được cử hành trong một khoảng thời gian cố định 21 ngày
hoặc 49 ngày (T46.795b16).
259
‘KCPL Thỉnh Quán Âm Sám Pháp’ đưa ra một cách thức khác:
{Ðặt một tượng Phật quay mặt về hướng Nam, và đặt
riêng một tượng Ðức Quán Âm quay mặt về hướng Tây} (T46.795b18-19).
Không nói rõ rằng nên đặt tượng vị Phật nào ở bức
tường hướng Bắc. Nghi lễ cung bái Phật Thích Ca và Phật
A Di Ðà. Trong tác Phẩm ‘Thỉnh Quán Âm Tam Muội Nghĩa’
(T46.968c24) đặt tượng Ðức Quán Âm và tượng Ðức Ðại
Thế Chí quay mặt về hướng Ðông; và đặt riêng tượng
Ðức A Di Ðà bên trái Ðức Quán Âm quay về hướng Nam. Tượng
Ðức Thích Ca có thể đặt một chỗ khác.
260
‘Nhánh cây nhỏ làm sạch răng’ (dantakastha), là nhánh liễu,
nhưng không phải là cành dương liễu của Bồ Tát Quán Thế
Âm, mà là một vật dụng làm sạch răng thông thường ở
Ấn Ðộ. Tóm lại, đó là một nhánh cây nhỏ để làm sạch
răng và nướu răng. Như một trong những vật cúng dường
mô tả trong ‘Thỉnh Quán Âm Kinh’, chiếc tăm làm sạch răng
nầy tượng trưng cho lực dụng tẩy uế trược. Vì vậy,
trong ‘Thỉnh Quán Âm Kinh Sớ’ (T39.973a), Quán Ðảnh nói:
{Ðây là hai biểu tượng để thúc giục lòng mong cầu giác
ngộ: nhánh liễu làm sạch [những cáu bẩn] tượng trưng cho
trí tuệ, nước sạch mát tượng trưng cho sự thẩm thấu
của định}.
Chan-jan
(T46.193c24-25) nói: {Ðối với [ý nghĩa] của nhánh cây nhỏ
và nước thơm mát ... là vì Bồ Tát Quán Âm cầm trong tay
trái của Ngài cành dương liễu và trong tay phải là chiếc
bình chứa tịnh thủy, nên phải soạn vật cúng dường như
trên}. Kogi (1.506) trình bày một cách chính xác rằng sự mô
tả nầy không thấy ghi trong ‘Thỉnh Quán Âm Kinh’. Trong
những chú giải của Quán Ðảnh cũng không thấy có ghi. Những
biểu tượng quen thuộc của Ðức Quán Âm tay cầm nhành dương
liễu, tay cầm tịnh bình được Chan-jan đưa ra bắt đầu
xuất hiện trong những bức họa Bồ Tát vào thời vãn Ðường.
261
KCPL, Quán Âm Sám Pháp (T46.795b20-21) đọc như sau: {Tối đa
mười người có thể tham dự buỗi lễ. Họ nên ngồi trên
những tấm đệm quay mặt về hướng Tây. Tuy nhiên, nếu sàn
nhà ẩm thấp, thì có thể làm thành những cái bục thấp.
Họ phải thay đổi áo tràng [khi rời tịnh thất], đi vào
bên phải và ra bên trái. Sau khi tắm gội, họ thay áo sạch
[khi vào tịnh thất]}.
Chỗ
nầy ‘Thỉnh Quán Âm Kinh’ nói rằng ‘thoa phấn’ thay vì
‘ướp hương’ (T20.35c) Kogi và Shiki ủng hộ Maha Chỉ Quán
và nói rằng đây là lỗi của những người chép kinh. Tuy
nhiên, trong Phương Ðẳng Sám Hối ở trên, khi [những người
hành lễ] tắm gội (trước khi thay áo tràng) thì dùng phấn
và nước hoa thơm (Fang-teng san-mei hsing-fa, T46.945b2), và tôn
giả Tuân Thức (Tsun-shih) giữ nguyên văn chữ ‘phấn’. Ðọc
‘Thỉnh Quán Âm Tam Muội Nghĩa’, T46.968c5.
262
Sáu ngày phát lồ sám hối (uposatha) gồm những ngày 8, 14,
15, 23, 29, và 30 âm lịch. KCPL, Thỉnh Quán Âm Sám Pháp (T46.193c27-9)
nói thêm: {Hằng ngày [hành giả] nên hết lòng cúng dường,
nhưng nếu không thể thu xếp được, thì phải nên tận dụng
những phương tiện để cúng dường trong ngày thứ nhất.
Rồi thì từng người một tay nâng bát hương, và quay mặt
về hướng Tây, nhất tâm, nhất niệm phủ phục năm phần
thân thể lạy xuống [trước bàn thờ]}.
263
Chan-jan (T46.193c27-9) nói: {Ngũ thể đầu địa như chư tăng
thường làm: ... hai cùi chỏ, hai đầu gối, đê đầu chạm
sàn nhà. Ðây cũng gọi là ‘ngũ luân’ vì năm phần làm
thành vòng tròn}. ‘Thỉnh Quán Âm Kinh Sớ’ (T39.972a-b) nói
rõ năm phần thân thể tượng trưng cho ngũ uẩn: tay và chân
trái thuộc âm nên tương ứng với hành (samskara) và sắc (rupa);
tay và chân mặt thuộc dương nên tương ứng với tưởng (sanjna)
và thọ (vedana); và đầu tương ứng với thức (vijnana).
264
Ðọc ‘Thỉnh Quán Âm Kinh’, T2035c. Bảy vị cổ Phật : Phật
Tỳ Bà Thi (Vipasyin), Phật Quá Khứ (Sikhin), Phật Visabhu, Phật
Câu Lưu Tôn (Krakucchanda), Phật Ca Diếp (Kasyapa), và Phật Thích
Ca Mâu Ni (Sakyamuni).
265
Ba đà la ni hoặc ba câu chú đọc giữa buỗi lễ: đà la ni
trừ độc hại, đà la ni diệt ác nghiệp, và đà la ni lục
tự (đều có ghi trong ‘Thỉnh Quán Âm Kinh, T20.35-36). Thực
ra có đà la ni thứ tư là Quán Ðảnh đà la ni (abhiseka) ghi
trong kinh, nhưng không có trong nghi lễ hoặc trong phần chú
giải.
266
Như được nói rõ về cách cung kính trong KCPL, Thỉnh Quán
Âm Sám Pháp (T46.795b25-c6), cung kính tam bảo dưới hình thức
của từng vị Phật, đà la ni, và chư Bồ Tát là trọng tâm
của ‘Thỉnh Quán Âm Kinh’. Mỗi lần cung thỉnh, bắt đầu
với lời xưng tán: {Nhất tâm đảnh lễ...} và chấm dứt
với năm phần thân thể phủ phục. Cùng với Bồ Tát Quán
Thế Âm và Bồ Tát Ðại Thế Chí, cung thỉnh chư Ðại Bồ
Tát, chư Thanh Văn, Duyên Giác, và chư thánh, hiền.
267
Ðược mô tả trong ‘Pháp Hoa Tam Muội Sám Nghi’, T46.950b24,
của Trí Khải như ‘gối bên phải quỳ, thân thẳng’. ‘Thân
quỳ’ là nghi thức truyền thống Phật giáo Ấn Ðộ và Trung
Á Châu. Theo Ðạo Tuyên (Tao-hsuan) trong ‘Thích môn quy kính
nghi’ (Shih-men kuei-ching I, T45.863c), gối bên mặt quỳ vững
vàng trên sàn nhà, và gối bên trái đưa lên. Mông chạm nhẹ
vào hai gót chân. Thân người quỳ thẳng, hơi nghiêng về trước,
và hai bàn tay chắp lại cung kính.
268
‘Thắp hương và rải hoa’ được nói đến trong cẩm nang
của Trí Khải gọi là ‘tam hành cúng dường’- đi cùng với
xưng niệm tiêu biểu như trong Pháp Hoa và Phương Ðẳng Sám
Pháp đã nói ở trên. KCPL Thỉnh Quán Âm Sám Pháp, T46.795c8-12,
chỉ dẩn: {Dâng hương và hoa, [hành giả] cúng dường theo
nghi thức thông thường. Khi xong phần tưởng niệm tam bảo
và mười phương pháp giới, với tâm thành kính, xướng lên
rằng: ‘Trầm hương và hoa thơm nầy như mây lan tỏa khắp
mười phương cúng dường chư Phật, Pháp, chư Bồ Tát và
vô số Thanh Văn, thắp sáng và nối kết vô biên cõi nước.
Vô lượng cõi Phật tiếp nhận để góp phần thành tựu Phật
sự, làm thanh tịnh tất cả chúng sinh và khiến họ phát tâm
Bồ Ðề hằng cầu đạo giác ngộ.’
269
‘Thỉnh Quán Âm Kinh’ mô tả tay trái đặt trên tay phải
(T20.36c), khác với truyền thống Ấn Ðộ nhưng phù hợp với
những lối mô tả của Trí Khải trong các bản văn viết về
thiền định cũng như với truyền thống Phật giáo Trung Hoa
về sau. Cách thức nầy hoàn toàn khác thường so với những
bản văn Ấn Ðộ.
270
Thỉnh Quán Âm Kinh, T20.34c. KCPK, Thỉnh Quán Âm Sám Pháp, T46.795c13-14,
nói thêm rằng: {Hành giả nên giữ tâm không tán loạn. Không
nên đếm hơi thở nếu hơi thở hổn hển, khó thở, hoặc
nặng nề}. Theo lập luận của Trí Khải về 25 phương tiện
thiện xảo về định trong ‘Thứ Ðệ Thiền Môn’( T46.490a
3-17) và Tiểu Chỉ Quán (T46.466a 1-10), ba điều kiện nầy làm
trở ngại sự phát triển về định. Pháp quán chỉ có thể
thực hành thành công với điều kiện thứ tư- khi hơi thở
nhẹ nhàng, tịch lặng- ‘nhẹ như tơ khi có khi không’}.
Chan-jan
(T46.194a 6-18) về sau giảng rộng về ý nghĩa đếm hơi thở
theo quan điểm của pháp thế gian cũng như theo tứ giáo Tạng,
Thông, Biệt, Viên. Với Viên giáo, hơi thở được quán trong
sự hòa hợp với ‘ba chân lý trong một niệm’. Lập luận
của tôn giả hầu hết dựa vào ‘Thỉnh Quán Âm Kinh Sớ’,
T36.972c.
271
Cả hai KCPK, Thỉnh Quán Âm Sám Pháp (T46.795c19-21) và đề mục
của tác phẩm thất truyền là ‘Thỉnh Quán Âm Kinh Sớ’,
gồm có nước sạch và nhánh cây nhỏ, như phần cung thỉnh
tam bảo. Tập sách trước ghi: {Quỳ gối thẳng và khấn nguyện
rằng: ‘Nhất tâm [con] cung thỉnh Ðức Bổn Sư Thích Ca Mâu
Ni Phật!. [Ba thời cung thỉnh chư thiên cùng tam bảo]. Ðể
cúng dường chư vị, [con] dâng nhánh dương và nước sạch.
Cầu xin chư vị rộng lòng từ bi chấp nhận [vật] cúng dường
[của con].}
272
KCPL, Thỉnh Quán Âm Sám Pháp (T46.795c22), gần với Maha Chỉ
Quán, phân biệt phần xưng tụng nầy với phần cung thỉnh
khác về danh hiệu chư thánh hiền tam bảo, nhưng phần mục
lục trong ‘Thỉnh Quán Âm Kinh Sớ’ không phân chia các phần
cung thỉnh và cúng dường. Chan-jan (T46.194a 19) đưa ra: {Xướng
ba lần] tượng trưng sự phá dẹp tam chướng (quả báo, nghiệp,
và phiền não). Chi tiết hành lễ có nói trong tập sách về
nghi lễ, được ghi trong ‘Quốc Thanh Bách Lục’ (Kuo-ch’ing
pai-lu) cũng như trong ‘Nam Sơn Ðạo Tuyên’ (Nan-shan Tao-hsuan).
Như vậy, bản văn có ghi rằng hành giả có thể nghiên cứu
kinh sách để làm đầy đủ phần thực hành.}
273
Những bài kệ, ghi trong ‘Thỉnh Quán Âm Kinh’ (T20.34c) cũng
như từ Chan-jan (T46.194a) đọc như sau: {[Con] cầu xin Ngài cứu
[con] thoát khổ hoạn, với tâm đại bi Ngài phóng tịnh quang
khắp nơi nơi diệt trừ bóng tối vô minh. Cầu xin [cho con]
được thoát khổ, não phiền, và bệnh tật. Cầu xin Ngài
ứng hiện tất cả nơi nào có con và ban cho [con] an lạc. Nay
con khấu đầu đảnh lễ Ngài, xin cứu khổ nạn. Nay con quy
tâm về Ngài, là đấng đại từ bi đối với tất cả thế
gian. Con cung thỉnh Ngài cứu con thoát khổ do tam độc gây
tạo, và ban cho con an lạc trong đời nầy và Niết Bàn về
sau}.
274
Theo đà la ni thứ nhất và thứ hai, KCPL Thỉnh Quán Âm Sám
Pháp (T46.795c23-26), đưa ra những bài kệ chọn từ kinh cũng
như tên của chư thánh hiền tam bảo.
275
Chan-jan (T46.194b12-13) nói: {Hai lần ngày và đêm bắt đầu
mỗi thời khóa. Vì vậy [bản văn] nói buổi sáng và trước
buổi tối}.
276
KCPL, Thỉnh Quán Âm Sám Pháp (T46.796a 2) nói ở đây, {Suốt
bốn thời khóa lễ [ngày và đêm], thiền tọa và cung bái
chư Phật như thường lệ}. [Cái gọi là] ‘như thường lệ’
nầy được Trí Khải viết trong tác phẩm ‘Lập Chế Pháp’
(Li chih-fa) là ‘bốn thời thiền tọa và sáu thời cung bái
chư Phật’ (KCPL, T46.793c8-9). Hai nghi thức thường được
áp dụng tại đạo tràng Quốc Thanh trên núi Thiên Thai là
‘Kinh Lễ Pháp’ (Ching-li fa) và ‘Phổ Lễ Pháp’ (P’u-li
fa) được ghi ở mục 2 và 3 trong KCPL (T46.794a-795b). Thêm chi
tiết, đọc Stevenson, The Four Kinds of Samadhi in Early T’ien T’ai
Buddhism, pp.45-48.
277
Thỉnh Quán Âm Kinh, T20.37a. Trong kinh, một vị tăng thành thật
và có đức tin tên là Upasena hỏi ngài Sariputra (Xá Lợi Phất):
{Trong khi tôi đếm hơi thở và cầu Thế Tôn thuyết pháp giải
thoát cho tôi, làm thế nào tôi có thể duy trì sự tĩnh lặng?
Vì nhãn căn và nhãn thức của tôi đáp ứng với sắc tướng,
làm cách nào tôi có thể duy trì sự tĩnh lặng? Tâm và thức
(manovijnana) của tôi đáp ứng với các pháp, làm cách nào
tôi có thể duy trì sự tĩnh lặng?... Như vậy, các thức nầy
là kẻ trộm sự chú tâm, nhảy nhót như khỉ vượn. Làm cách
nào tôi có thể duy trì sự tĩnh lặng ngay nơi những nghiêng
ngữa của sáu căn và đối tượng của nó là các pháp có
mặt mọi thời, mọi nơi?. Câu trả lời của ngài Xá Lợi
Phất lập tức theo như kinh dạy, nhưng Maha Chỉ Quán lấy
một dẩn chứng từ Ðại Tập Kinh và một đoạn khác từ
Thỉnh Quán Âm Kinh.
278
Ðại Tập Kinh, T13.168c, được Kogi (1.508) ghi nhận là xuất
xứ, nhưng không đích xác.
279
Thỉnh Quán Âm Kinh, T20.37a. Ðoạn kinh văn đưa ra ở đây phủ
nhận di sản của tứ đại: {Ngài Sariputra liền bảo ngài
Upasena: ‘Giờ đây ông nên quán địa đại thiếu tánh kiên
cố, tánh của thủy đại thì không trụ, tánh của phong đại
thì không ngăn ngại... và tánh của hỏa đại thì không thực;
... sắc, thọ, tưởng, hành, và thức mỗi mỗi đều có tánh
và tướng như đất, nước, lửa, và khí. Tất cả đều vào
thực tế’. Khi ngài Upasena nghe những lời nầy, toàn thân
ngài trở nên giống như nước và lửa. Ngài liền chứng được
tứ đại tam muội, liễu ngộ được tánh rỗng lặng và vô
hình tướng của năm uẩn, diệt trừ được những trói buộc,
những ô nhiễm trong tâm, đắc quả A la hán, và dùng lửa
trong thân thiêu thân mình thành tro và nhập Niết Bàn.}
280
Những thí dụ từ mười upamana hoặc ‘sự tương tự’ (tức
bọt nổi, bóng nước, huyễn ảo, bẹ chuối, biến hiện,
mộng, phản chiếu, tiếng vang, mây khói, ánh chớp) thường
dùng trong kinh điển để biểu thị sự mong manh, tánh chất
dễ tan biến như sương của các pháp. Ðọc Lamotte, L’Enseignement
de Vimalakirti, pp.132-133, no. 23).
281
Chan-jan (T46.194c25-195a 1) nói: {Nếu không có [nền tảng] quán
huệ thì sự tu tập trở thành chủ trương khổ hạnh chẳng
mang lại lợi ích gì. Vì lý do nầy, hành giả phải dùng thiền
quán [thấy các cảnh như] huyễn hiện v.v... để chứng ngộ
được sự rỗng lặng của pháp tánh và tướng phân biệt,
vào được thực tế. Có hai cái hiểu về thực tại: Nhị
Thừa dùng cái thấy của Thông Giáo [để giải thích thực
tại là] chân hoặc thực. Biệt giáo và Viên giáo dựa vào
[cái thấy] trung đạo, và không nắm giữ cái thấy của Tiểu
[Thừa]. Ở đây, [Maha Chỉ Quán] đang nói về Thông giáo, nhưng
khi đến phần sáu câu đà la ni ở bên dưới thì hợp vào
cái thấy trung đạo. Ðây là tất cả những trường hợp
về quán tà pháp nói ở phần dưới, hoàn toàn căn cứ vào
pháp quán viên mãn. Vì vậy, các ông nên biết rằng ý nghĩa
trong đề mục nầy là ý nghĩa của Viên giáo}.
282
Ba câu chú đầu tiên trong Thỉnh Quán Âm Kinh (T20.35a 6-15) được
xưng tán trong nghi lễ nầy. Chính kinh cũng ghi tên của đà
la ni nầy là ‘thần chú từ mười phương chư Phật cứu
độ chúng sinh hữu tình’, khác với tên gọi Trí Khải đưa
ra. Tên gọi của Trí Khải (‘đà la ni tiêu phục độc hại’)
thực sự là tên kinh gọi câu chú thứ hai (tức ‘đà la ni
diệt trừ chướng ngại từ tà pháp, tiêu trừ độc, và hàng
phục nguy hại). Ðọc T20.35a 23-24.
‘Báo
chướng’ là một trong tam chướng (san chang)- tức phiền não
chướng, nghiệp chướng, báo chướng. Báo chướng chỉ cho
những chướng ngại của thân tâm cũng như cõi cảnh sinh ra
từ nghiệp quá khứ. Cặp báo chướng và phiền não chướng
với đà la ni thứ nhất và thứ ba đạt đảo ngược trong
Maha Chỉ Quán và Thỉnh Quán Âm Kinh Sớ. (Ðọc T39.973a 24-29).
283
Thỉnh Quán Âm Kinh, T20.35a 20. Ðà la ni nầy chữa lành bệnh
dữ mà dân trong thành Vaisali đã vướng phải.
284
Cùng chỗ, T20.35a 22-b11. Ðà la ni thứ hai trong ba đà la ni hợp
với nghiệp chướng vì kinh thuyết tên gọi là ‘thần chú
tiêu trừ nghiệp chướng, chế phục độc hại.’ ‘Thỉnh
Quán Âm Kinh’ có nói về sự hiệu nghiệm [của đà la ni]
(T20.35b8-13): ‘Tất cả sợ hãi, độc dược và đe dọa sẽ
biến mất. Tà thần, cọp, sói, sư tử, khi nghe được đà
la ni nầy, sẽ ngậm miệng lại, dừng việc gây nguy hại.
Ngay cả người vi phạm tịnh giới và phạm phải mười pháp
cấm, khi nghe được đà la ni nầy, sẽ gạn sạch ô nhiễm
và trở nên thanh tịnh. Dù cho nghiệp chướng của các ông
sâu nặng đến mấy, hãy niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế
Âm và ghi nhớ đà la ni nầy. Nghiệp chướng ấy sẽ bị tiêu
trừ và các ông sẽ thấy được Phật hiện ra trước mắt.}
285
Cùng chỗ, T20.36a 6-12. Câu thứ ba trong ba đà la ni. Tên gọi
đà la ni nầy là ‘lục tự chương cú’- là vấn đề, vì
nó không có bất cứ sự liên hệ trực tiếp nào với năm
mươi mẫu tự làm thành thần chú trong Hoa ngữ, ngoài sự
kiện rằng đà la ni gồm mười hai chữ nối tiếp, mỗi chữ
có ba mẫu tự hoặc ba vần.
Chan-jan
(T46.195b18-29) hiệu đính ‘Thỉnh Quán Âm Kinh Sớ’, nói:
{Có người nói rằng đó là chỉ cho tên tam bảo, mỗi một
[bảo] có hai vần như Buddha (Phật), Dharma (Pháp), và Sangha
(Tăng). lại có người nói rằng tam bảo gồm có ba vần hoặc
ba chữ, và hồng danh Quán Thế Âm cũng có ba chữ, nhưng thực
ra không có chứng cớ nào về những điều nầy được ghi
lại trong chính bản kinh. Vì vậy, chúng tôi bỏ qua [những
ý kiến nầy]. Phân tích những đoạn văn trong kinh, tập chú
giải ‘Thỉnh Quán Âm Kinh’ đưa ra ba lối giải thích về
tên gọi ‘lục tự’. Lối thứ nhất nhìn ‘lục tự’
từ quan điểm báo hoặc quả. Sau khi những bài kệ giải thích
chi tiết rằng làm thế nào, sau khi nghe bởi tứ chúng, lục
tự có năng lực nhổ tận gốc khổ não trong sáu cõi [luân
hồi]. Lối thứ hai nhìn ‘lục tự’ từ quan điểm của
nhân: Khi ngài Upasena nghe được lục tự chương cú, được
dùng để quán dòng tâm luân lưu, lục diệu [pháp môn] được
giải thích chi tiết. Thứ ba, sáu căn tương đương sáu chữ.
Ngài Sariputra (Xá Lợi Phất) trong khu rừng đã trả lời ngài
Upasena khi vị nầy nói rằng: ‘Khi mắt đáp ứng hình sắc...,
kinh đã dạy tận tường về sáu thức. Mỗi ba đoạn văn
trong kinh kết lại thành câu ‘Vì nghe được lục tự chương
cú...’. Như vậy, ý nghĩa của lục tự không nằm bên ngoài
ba mục nầy. Bản văn [Maha Chỉ Quán] hiện có đua vào hai
lối giải thích nầy- lối thứ nhất và thứ ba}. Ðọc ‘Thỉnh
Quán Âm Kinh Sớ’, T39.975b13-c11.
Oda’s
Bukkyo daijiten (1827c) trích tập chú giải chưa từng phát hành
của Hotan (1654-1738) về ‘Thỉnh Quán Âm Kinh’, Kanon-sangenki,
cho rằng lục tự đặc biệt chỉ cho sáu chữ amdali-pamdali
trong đà la ni. Câu nầy cũng có trong hai đà la ni kia. Hotan
nói rằng các chữ nầy có nghĩa là anapanasmrti (quán hơi thở).
286
Cả Chan-jan (Trạm Nhiên) và Thỉnh Quán Âm Kinh Sớ đều không
đưa ra một giải thích minh bạch nào về xuất xứ của lục
tự của Ðức Quán Thế Âm.
287
Từ kinh Niết Bàn, T12.690b. Những tam muội nầy liên quan đến
‘hai mươi lăm Hữu’ ghi trong kinh, mỗi tam muội đoạn diệt
một hữu. Hai mươi lăm hữu chỉ là một sự phân chia theo
đường dọc trong tam giới. Như vậy, cõi Dục có 14 hữu quy
tụ trong sáu cõi- một hữu cho mỗi cõi địa ngục, súc sanh,
ngạ quỷ, a tu la; bốn hữu cho các cõi người; sáu hữu cho
các cõi trời. Cõi Sắc có bảy hữu theo tứ thiền. Cõi Vô
Sắc có bốn hữu theo bốn loại thiền vô sắc (samapatti).
Chi tiết về hai mươi lăm tam muội nầy đối với hai mươi
lăm hữu (và chổ đứng trong đạo Bồ Tát) có ghi trong tác
phẩm ‘Tứ Giáo Nghi’ của Trí Khải (Ssu chiao I / T46.755c29-758b28).
288
Thỉnh Quán Âm Kinh, T20.35c, 38a 6-7. Chan-jan (T46.196c1-2) nói:
{Phát khởi tâm đại bi và lấy chân lý làm đối tượng,
hành giả chứng được bất thoái chuyển. Quả vị nầy tương
đương với sơ trụ hoặc sơ địa tùy thuộc vào Biệt giáo
hoặc Viên giáo, nơi mà tâm không còn lui sụt}.
289
‘Thất Phật Bát Bồ Tát Sở Thuyết Ðà La Ni Thần Chú Kinh’
(Ch’i fo pa p’u-sa shuo t’o-lo-ni shen-chou ching, T no. 1332). Chan-jan
(T46.196c9-14) nói: {Kinh nầy trước hết hiển lộ rằng mỗi
vị trong bảy vị Phật có thần chú, và giải thích thêm rằng
đà la ni có công năng như phương tiện sám hối. Tiếp theo,
bản kinh nói về tám vị Bồ Tát... mỗi vị có một thần
chú và phương thức sám hối hữu hiệu}.
290
‘Quán Hư Không Tạng Bồ Tát Kinh’ (Kuan hsu-k’ung-tsang p’u-sa
ching, T 13.677a-677c). Theo Chan-jan (T46.196c8-197a 19), dẩn chứng
bản kinh, thực tập gột rửa những nơi cáu bẩn được làm
hằng ngày, thiền quán về Bồ Tát Hư Không Tạng, và sám
hối trước 35 vị Phật. Pháp tu nầy kéo dài đến 800 ngày.
291
Toàn đề mục giới thiệu trên bốn tác động của tư tưởng
nầy (từ T46.15b21 đến 15c16) lấy từ phẩm 4 tác phẩm Giác
Ý Tam Muội (T46.623a 8-b23) của Trí Khải, giản lược và xếp
đặt lại. Phẩm nầy (Minh định các tướng của bốn trạng
thái chuyeên động) bắt đầu với câu hỏi: {Nếu một hành
giả muốn nhập tam muội nầy, gì là những tâm pháp đặc
thù mà người ấy nên dùng làm pháp quán căn bản?}. Trí Khải
trả lời rằng bốn trạng thái tâm hành thuộc thế tục được
dùng một cách chính xác là pháp quán căn bản (hơn là bất
cứ đối tượng cố định thuộc sắc tướng bên ngoài) bởi
vì chúng liên tục xuất hiện và trở đi trở lại, qua từng
tư tưởng và hành động. Ðược hỏi tại sao những điều
trên được xem là tướng [để] quán chiếu, Trí Khải trả
lời rằng (T46.623a 19-23): {Vì là [cái] có thể được thấy
hiểu và phân biệt như một ‘tướng’. Tâm pháp và thức
thì không có hình tướng. Nếu không dùng bốn tướng của
tâm hành như phương tiện để phân biệt thì khó mà biết
được. Nếu hành giả không có khả năng biết được tâm
một cách rõ ràng [như một đối tượng], thì không thể nào
thực hành pháp quán. Vì vậy, trước hết hành giả phải
biết rõ [tâm và những chuyển động giả tạm của tâm] qua
phương tiện tứ [tướng]. Nếu hành giả quán tưởng đến
chỗ chứng ngộ được tướng tức vô tướng, thì hành giả
sẽ vào được chỗ bình đẳng viên toàn của nhất tướng}.
Chan-jan
(T46.197a 26-b4) nói: {Chữ Yun có nghĩa là sự chuyển động.
Từ ‘chưa’ đến ‘sắp sửa’; từ ‘sắp sửa’ đến
‘thực sự’; từ ‘thực sự’ đến ‘hoàn tất’. Như
vậy [yun] được nói một cách tổng quát là sự chuyển động.
... Trong [pháp quán] về [lục] hành và [lục] thức tiếp theo
sau, nếu hành giả không phân biệt bốn [trạng thái chuyển
động] một cách rõ ràng, pháp quán tâm sẽ không có căn bản}.
292
Ðoạn văn đặc biệt nầy được rút ra và sắp đặt lại
dựa vào một đoạn văn trong ‘Giác Ý Tam Muội’, T46.623a
10-11.
293
Ở đây, Chan-jan dấn thân vào sự bình luận về những lối
giải thích sai lầm đối với ‘ Tùy Tự Ý Tam Muội’ cũng
như đưa ra thấu đáo những phương pháp thực hành tôn giả
cho rằng chân chính. Ðoạn văn trong câu hỏi đã đưa ra kết
luận sâu sắc cuộc tranh cãi về các vấn đề thiền định
giữa hai phái Sơn Gia và Sơn Ngoại trong Thiên Thai Tông vào
đời Tống. Chúng tôi phiên dịch đầy đủ (với một ít
phần toát yếu).
Chan-jan
(T46.197b4-18) nói: {Hơn nữa, người nhiều nơi trên thế giới
ngày nay cho rằng cái tâm trong đó niệm sinh khởi (sheng-hsin)
là sai trái, và hành giả nên quán cái tâm [trong đó niệm]
đã diệt. Cách quán thứ hai nầy [họ cho là] đúng. Nói như
thế đó thì những người nầy kết cuộc đã hoàn toàn phá
bỏ [pháp hành thiền], [vì họ] nghĩ rằng cách tu như vậy
mới biểu trưng được sự vô-sinh hoặc vô-khởi [của niệm].
Lỗi lầm của họ thực là trầm trọng vậy. Những hành giả
tu định nầy đều cho rằng họ quán vô sinh nhưng họ không
có bất cứ manh mối nào để thấy được ‘vô sinh’. Cái
[tình trạng của vô sinh] nầy trước đó hiện hữu hoặc
có mặt? Trước đó không hiện hữu hoặc không có mặt? Nếu
các ông nói rằng nó đã sẳn có mặt thì các ông phải từng
chứng ngộ vô sinh. Nếu các ông nói rằng không sẳn có mặt,
thì làm sao các ông có thể gọi đó là pháp quán?...
[Quán]
giống như dập tắt ngọn lửa: [than đỏ] phải hoàn toàn
tắt. Nếu hành giả chỉ xua tan những cái thấy được [lửa
và khói], và không diệt đi mầm mống ngọn lửa sinh khởi
trở lại, hành giả có thể ngay cả bị thiêu đốt bởi ngọn
lửa chưa [kịp] xuất hiện. Quán tâm trong chuyển động ‘chưa
sinh’ và ‘đã sinh’ là thực sự biết được cái tâm ‘sắp
sinh’ và ‘đang sinh’. Những người nào đã dùng sự quán
chiếu sai lạc nầy về [niệm] vô sinh để tự trói buộc
mình [là những người] chỉ biết quán tưởng tâm hoàn toàn
từ sản phẩm nó sinh ra, và đè nén nó, không cho nó phát
sinh niệm. Họ không biết quán cái tâm trước khi khởi niệm.
Bổn tánh của tâm vốn không hiện hữu. Tánh bất hữu nầy
là một cái gì thuộc nền tảng, sự sinh khởi hoặc hành
thì giống như vô sinh khởi...
Hơn
nữa, pháp quán về bốn trạng thái chuyển động [của tư
tưởng] là pháp thiền quán theo đầu ngọn và theo hiện tượng
(shih), bất cứ nơi đâu tư tưởng đưa đẩy (tùy ý). Mặt
khác, những phương pháp như thường-thiền-tọa liên quan đến
quán lý (li) hoặc [nhận thực] rằng không có pháp nào không
là pháp tánh. Như vậy, hành giả phải biết chẳng thể bỏ
qua pháp nào trong hai pháp nầy trong khi tu tập tam muội. Cùng
một ý như vậy, ‘Chiêm Sát Kinh’ (Chan-ch’a ching / T17.908a-b)
nói: {Có hai pháp thiền quán. Một là [pháp] duy thức, nơi
tất cả [được nhận ra] là duy tâm. Pháp thứ hai là quán
thực tại hoặc chân như. ‘Duy thức’ là pháp quán ngay giữa
thế giới hiện tượng (shih). ‘Chân như’ là pháp quán về
lý (li). Pháp quán về bốn trạng thái [chuyển động] là áp
dụng vào muôn vàn sự tướng trong mười pháp giới được
nói trong bản văn ở đây tương đương với quán vạn pháp
duy tâm nói trong ‘Chiêm Sát Kinh’. Luôn ghi nhớ ý nghĩa đoạn
văn ở đây: ‘Nếu hành giả có thể thấu triệt bốn [chuyển
động], hành giả sẽ vào được vô tướng’}.
Phần
luận về ‘Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo Kinh’ (Chan-ch’a
shan-e yeh pao ching), đọc Lai, The Chan-ch’a ching: Religion and
Magic in Medieval China.
294
Phần vấn và đáp nầy lấy từ ‘Giác Ý Tam Muội’, T46.623a
24-b8. {Khả dĩ rằng hành giả có thể quán tưởng hai trạng
thái chuyển động ‘sắp sửa nghĩ’ và ‘đang nghĩ’. Nhưng
vì ‘chưa nghĩ’ chưa sinh khởi nên không có cái tâm [nghĩ].
Không tâm [trạng], không có tướng để phân biệt}.
295
Chữ ‘tâm’ (hsin) ở đây lấy từ một đoạn văn trong ‘Giác
Ý Tam Muội’, T46.623a 27. Chan-jan (T46.197c 9-10) nói: {[Vì tại
điểm nầy tư tưởng] chưa phát khởi, hành giả có thể nói
rằng không hiện hữu. Nhưng vì [tâm] không phải là vĩnh viễn
hoặc hoàn toàn không có mặt [vào thời điểm nầy], nên hành
giả vẫn phải quán [tâm]}. Kogi (1.534) nói rằng mặc dù có
những thay đổi trong tâm hành, thể của nó không tan biến.
296
Chan-jan (T46.197c12-14) nói: {Nghĩ và chưa nghĩ mỗi cái áp dụng
vào những điều kiện căn bản có trước. Mặc dù những
điều kiện nầy có đến có đi, tâm chính nó không mất.
Vì không mất, một tâm như vậy có thể sinh khởi hàng hàng
tư tưởng. Vì vậy, trong pháp quán tâm hành giả ngăn ngừa
việc lấy cái mê lầm hoặc ô nhiễm- chín cõi trong pháp giới-
làm pháp nền tảng. Làm được như vậy, hành giả vào được
Phật trí}.
297
Nếu tâm hoàn toàn diệt theo từng niệm diệt, sự luân lưu
của nghiệp nhân và quả (cũng như tu tập vì vậy) trở thành
không thể có được. Hẳn nhiên, đây là một trong những
nền tảng căn bản của học thuyết Du Già (Yogacara) về thức
A-lại-gia và thức Mạc-na như căn cứ liên tục của tâm hành
bồi dưỡng sự sinh và diệt trong mỗi khoảnh khắc của ý
(manas) và thức (vijnana). Mặc dù pháp quán về bốn trạng
thái [chuyển động] của tư tưởng thì hoàn toàn nhắc lại
pháp thiền Phật giáo cổ xưa về khoảnh khắc sinh diệt của
thức và những yếu tố đi theo (như ngũ uẩn, xứ, và giới);
tôn giả Tuệ Tư, Trí Khải và Trạm Nhiên đều ngầm hướng
về truyền thống pháp tánh Du Già (proto-Yogacara-tathagata-garbha)
thời Trung cổ Trung Hoa.
298
Phần vấn và đáp nầy lấy từ ‘Giác Ý Tam Muội’ (T45.623b8-23).
Chan-jan (T46.197c16) cho rằng câu hỏi nầy tương tự với câu
kinh Kim Cang, dù rằng không như nguyên văn- đọc Kim Cang Bát
Nhã Ba La Mật Kinh (T8.751b27-28): {Nầy Tu Bồ Ðề! Tâm quá khứ
bất khả đắc, tâm hiện tại bất khả đắc, tâm vị lai
bất khả đắc.}
299
Biết được số phận của người khác qua thiên nhãn, biết
nghiệp quá khứ của mình và người, và biết được tâm
hiện tại của người khác là cái thông thứ nhất, thứ ba,
và thứ tư trong ngũ thông. Những thông lực nầy được xem
là thuộc thế gian, ma chúng và loài người đều có thể chứng
đắc. Thêm vào ngũ thông nầy, chư thánh chứng được cái
thứ sáu là lậu tận thông.
300
Chan-jan (T46.198a5-8) nói: {Trí Khải dùng hai tỷ dụ để đưa
ra cái thấy của chủ thuyết đoạn diệt. Người đối lập
trích đoạn văn ‘ba thời đều bất khả đắc’ để đưa
ra quan điểm rằng tuyệt đối không có tâm. Chỗ nầy tương
đương với hai [tỷ dụ], chính chúng hoàn toàn không hiện
hữu. Ðây gọi là chủ trương đoạn diệt}.
301
Ðại Trí Ðộ Luận, T25.64c. Hai dòng trước của bài kệ đọc
là: {Nếu có hạt giống, thì cũng có quả. Sự nối truyền
của nhân tố tạo ra tác động cũng như quả là luật thâm
sâu, tối thượng được khám phá bởi Ðức Phật}.
302
‘Giác Ý Tam Muội’, T46.623c2. Trong đoạn văn nầy Quán Ðảnh
(Kuan-ting) nhấn mạnh vào sự phát triển con đường thiền
quán đặc thù được Thiên Thai Trí Khải đưa ra chi tiết
trong tác phẩm ‘Giác Ý Tam Muội’. Theo tác phẩm nầy (T46.623b25-624c19),
hành giả tu tập ‘tam muội duy trì tư tưởng luôn tĩnh thức’
trước hết phải điều phục tâm mình qua sự hành trì lục
độ và nuôi dưỡng một chánh tín rằng tâm và vạn pháp
đều rỗng lặng. Rồi thì với ‘một cái tâm đã được
mở dây trói buộc’, hành giả ‘quay lại chiếu soi và quán
tưởng’ bốn trạng thái [chuyển động] của tâm trong từng
niệm. Khi bốn trạng thái nầy đã thành lập đầy đủ như
đối tượng quán chiếu, và qua sự chiêm nghiệm về bốn
sự luân phiên của bốn pháp, thấy được rằng chúng bất
khả đắc. Giác Ý Tam Muội (T46.624b23-27) nói: {Sự quán về
[chuyển động] chưa-nghĩ và sắp-sửa-nghĩ trong đường hướng
nầy, nếu hành giả không chấp nhận bất cứ cực đoan nhị
nguyên, [thì] hành giả sẽ không hiểu theo cực đoan nhị nguyên.
Không hiểu theo cực đoan nhị nguyên, hành giả sẽ không còn
chấp chặt cực đoan nhị nguyên [cũng sẽ không tiếp tục]
gieo trồng hạt giống nghiệp. Một khi hành giả không nằm
trong chủ trương nhị nguyên, cởi bỏ những hành vi đưa đến
ràng buộc, thoát ra những chướng ngại, thì cái tâm chánh
quán [sẽ xuất hiện] trong sáng và thanh tịnh như hư không.
Như kết quả, chánh trí trung đạo bừng sáng, và [hành giả]
sẽ đến được chỗ đồng thời chiếu soi nhị đế}.
Theo
Giác Ý Tam Muội ‘chánh quán’ nói đến ở đây biểu trưng
nền tảng của ‘giác ý tam muội’. Có hơn chăng là một
phương thức cẩn mật về mặt thực hành. Chánh quán trước
hết phải được phát triển qua thiền tọa, một pháp tu Trí
Khải gọi là ‘tổng quán’ (tsung-kuan). Chỉ khi pháp quán
chiếu bốn trạng thái [chuyển động của tư tưởng] và tánh
bất khả đắc của chúng đủ vững vàng để được gìn
giữ một cách hữu hiệu qua những thực hành khác thì có
thể không còn phải tu tập thiền tọa thường xuyên. Sự
áp dụng uyển chuyển pháp quán nầy trong tất cả các oai
nghi- tức lục thức và lục hành dưới những tình trường
của thiện và ác- thì gọi là biệt quán (pieh-kuan). Khuôn
thước nền tảng đối với sự phát triển ‘chánh quán’
hoạt dụng như một cấu trúc tâm điểm trong tác phẩm ‘Tiểu-Chỉ-Quán’
(Hsiao Chih-kuan, T46.466c28-467a3)) của Thiên Thai Trí Khải cũng
như phần giảng giải minh bạch về ‘Chánh Quán’ trong đại
phẩm VII của tác phẩm Maha Chỉ Quán (T46.100b16).
303
Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, và
Trí tuệ.
304
Ði, đứng, nằm ngồi, nói, nín, và những thứ linh tinh khác.
Những chỗ nầy lấy từ Tùy-Tự-Ý-Tam-Muội của tôn giả
Tuệ Tư (HTC 98.344a) và Giác-Ý-Tam-Muội (T46.624c21-21), ngoài
những chỗ khác nhau thay vì ‘nằm’ thì ngài Tuệ Tư ghi
là ‘ngủ’, thay vì ‘linh tinh’ thì là ‘ăn’.
305
Thức thứ nhất trong lục thức, đọc Giác-Ý-Tam-Muội, T46.625b3-12.
306
Cùng chỗ, T46.625b6-10. Giác-Ý-Tam-Muội nói: {[Những yếu tố]
lục căn, trần, không gian, và ánh sáng không thể tự thấy
và phân biệt lẩn nhau. Ðến với nhau từ nhân và duyên, sinh
ra nhãn thức. Với nhãn thức như nhân và duyên, ý thức sinh
ra. Khi ý thức xuất hiện, hành giả có thể phân biệt nhiều
loại hình tướng. Cũng vậy, nhãn thức có mặt qua sự sinh
khởi của ý thức. Với nhãn thức, hành giả có thể thấy
hình sắc, và rồi thì bị hình sắc ràng buộc. Vì lý do nầy,
hành giả phải quay trở lại chiếu soi và quán cái tâm tĩnh
thức trước hình tướng}.
307
Phương pháp quán tưởng hai mặt của Trí Khải ở đây- bác
bỏ các loại phát triển thuộc thế tục và bác bỏ những
yếu tố bên cạnh nhân và duyên- là khuôn mẫu điển hình
đối với tất cả năm thức và sáu hành còn lại. Hai pháp
quán nầy, cùng với pháp quán thứ ba đã được nói chi tiết
ở pháp thứ tư trong mười pháp quán (Sự tận diệt hoàn
toàn các pháp) trong đại phẩm VII, Maha Chỉ Quán (T46.63a 7-65a
2), cũng như trong tác phẩm ‘Tam Quán Nghĩa’ của Trí Khải
(San kuan i, HCT 99.79a-80b). Ðây là pháp quán tưởng đối trị
ba giả định của tâm: nhân thành (yin-ch’eng), tương tục
(hsing-hsu), và tương đãi (hsiang-tai). Phương pháp căn bản
cho tất cả ba là ‘chỉ cái bất khả đắc của từng vị
trí bằng cách bác bỏ một cách hệ thống của tứ-cú-suy-kiểm
}.
Trí
Khải nói rằng toàn thể hệ thống đều từ tập Trung Luận
(Mula-madhyamaka-karika) của Bồ Tát Long Thọ. Ðọc Maha Chỉ
Quán, (T46. 63c 16-21). Trong khi có một sự tương tự không thể
nhầm lẩn giữa những pháp quán nầy và pháp thứ ba (Quán
sáu tình), thứ hai (Quán sự đến và đi), hoặc thứ bảy
(Quán ba tướng), và thứ nhất (Quán nhân và duyên) trong bộ
Trung Luận của Long Thọ, sự xứng hợp không phải là giống
[y khuôn]. Ðọc Trung Luận, T30.1b-6b.
308
Giác Ý Tam Muội (T46.19816-18) nói trong phần quán về tưởng:
{Hành giả quay [nổ lực] quán chiếu trở lại quán tưởng
nguồn tâm, hành động nhận biết hoặc ý tưởng, và thức.
Khi quán tâm một cách cẩn trọng, hành giả sẽ không thấy
bất cứ một cái tâm nào cố định; cũng chẳng có [bất
cứ tâm nào từ đó] các pháp khác nhau và tướng của chúng
sinh và diệt. Nếu không có nơi chốn nào là nơi tâm trụ,
cũng chẳng có sự sinh và sự diệt của các pháp và các tướng,
thì hành giả nên biết rằng tâm nầy bất khả đắc}.
309
Chan-jan (T46.198b16-18) nói rằng thức nên được thêm vào chỗ
nầy để thành năm yếu tố hợp lại để sinh ra tâm thấy:
{Khi mắt nhìn hình tướng, năm yếu tố phải trợ duyên trước
khi hành giả có thể thấy: không gian, ánh sáng, căn, cảnh,
và thức. Nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, và
ý thức không đòi hỏi ánh sáng}.
310
Nguyên câu văn nầy (cũng như nhiều câu theo sau) lấy từ Giác
Ý Tam Muội (T46.625b6-10); đọc ghi chú #68 ở trên. Chan-jan (T46.198b24-27)
giải thích đoạn văn như sau: {Với nhãn thức làm nhân duyên
phát sinh ý thức, nhãn thức hành động như chánh nhân (hetu),
nhưng nó cũng có căn, cảnh, không gian, và ánh sáng làm trợ
duyên (pratyaya). Ngay tức khắc nó sinh ra ý căn. [Khái niệm]
‘nhãn thức có mặt trên nền tảng ý thức’ chỉ căn cứ
vào sự kiện rằng cái nhân [đối với] sự diệt tức thời
của thức nhận biết hoặc ý thức được thành lập bởi
căn nhận biết hoặc ý căn: khi [ý căn chuyển đổi] vào chỗ
đối diện với các cảnh khác, nhãn thức lại sinh khởi.
Như vậy hai thức thay phiên làm nhân cho nhau}.
Koroku
(đưa ra Kogi 1.542) tin rằng nhóm chữ ‘các cảnh khác’ đặc
biệt chỉ cho các pháp thuộc căn nhận biết hoặc ý căn,
nhưng Kogi chỉ trích lối giải thích nầy, và nói rằng thay
vì vậy, nó cũng là đối tượng nhận thức của các căn
khác.
311
Chan-jan (T46.198b28-c1) nói: {Kế tiếp, bản văn phân biệt từng
[cõi] trong mười cõi [của pháp giới]. Ðoạn văn nói về
bốn cõi đầu tiên- nơi mà ‘bằng nhãn thức hành giả có
thể nhìn thấy’ v.v... căn cứ vào kinh và hoàn toàn gần
với Tiểu Thừa. Như vậy muốn nói là ‘thức thấy’. [Tâm]
phát khởi đứng trên căn bản nầy, với [nhãn thức và ý
thức] thay nhau làm nhân duyên cho nhau. Trong đường lối nầy,
mười cõi trong pháp giới dần sinh khởi}.
312
Theo Chan-jan (T46.198c6-13).
313
Khổ, lạc, và vô ký.
314
Chan-jan (T46.198c17-20) ghi nhận bốn cái đầu tiên như thiền
tứ niệm trụ (smrtyupasthana)- vô thường, bất tịnh, khổ,
vô ngã- đại diện cho pháp hành của chư vị Thanh Văn. Yếu
tố thứ năm, duyên khởi (pratiyasamutpda) là pháp hành của
chư vị Duyên Giác.
315
Ðược ghi nhận bởi Chan-jan (T46.198c20) như cảnh giới Bồ
Tát.
316
Vật cho, người cho, và người nhận.
317
Ðoạn nầy lấy từ hai đoạn kinh khác nhau trong Kim Cang, T8.749a
12-15. Và 750b29-c3.
318
Sáu mươi hai kiến chấp biểu trưng tất cả những kiến hoặc.
Chan-jan cống hiến sự phân chia thành bảy định nghĩa, dựa
vào lập luận của tôn giả Quán Ðảnh (Kuan-ting) về kinh
Niết Bàn (Ðại Bát Niết Bàn Kinh Sớ, T38.169a-b). [Chan-jan]
đưa ra những định nghĩa như sau: {Ngũ uẩn trong cõi Dục
nhân với tứ cú thành hai mươi lối thấy. Lại nhân với
tứ cú của cõi Sắc, thêm hai mươi. Vì không có sắc tướng
ở cõi Vô Sắc, tứ uẩn nhân với tứ cú thành mười sáu.
Hai lối nhìn cực đoạn của hai chủ trương thường và đoạn
cộng thêm vào cho ba cõi, sinh ra thêm sáu lối nhìn, tạo thành
sáu mươi hai. Trong tác phẩm ‘Pháp Hoa Văn Cú’ (T34.56b5-8),
Thiên Thai Trí Khải đưa ra lời giải thích như sau: {Ngũ uẩn
có thể được nhìn như ngã, hoặc như cái tách biệt với
ngã, hoặc lớn hơn ngã, hoặc nhỏ hơn ngã, làm thành hai mươi.
[Con số] nầy nhân với tam thời thành sáu mươi, cộng với
hai lối nhìn sai lầm về thường và đoạn, tất cả làm thành
sáu mươi hai}.
319
Bốn lối nhìn đảo ngược dùng trong Tiểu Thừa để diễn
tả cuộc vận hành ảo hiện được nói đến trong kinh Niết
Bàn như bốn tánh đức của Phật tánh hoặc tánh giác ngộ
có sẳn (T9.648a-653c).
320
Chan-jan (T46.26-27) nói: {Bởi vì trong tánh rỗng lặng hành giả
thấy dung chứa đầy đủ bốn [chuyển động] của mười
cõi [pháp giới], bản văn nói rằng ‘khác nhau’}.
321
Chỗ nầy, chữ ‘pháp giới’ (fa-chieh) nên được dịch là
‘cõi’ (gati) hơn là như dharmadhatu.
322
Dùng chữ ‘ghi lại’ hoặc ‘lưu ý’ cho thấy rằng phần
nầy được tôn giả Quán Ðảnh đưa vào.
323
Chan-jan (T46.200a8) nói: {Hoạt dụng của tâm là cội nguồn
[của mười pháp giới]}. Tôn giả đã liên kết từng tác
động trong mười tác động với từng cõi trong mười cõi:
phạm giới với địa ngục, và phần còn lại với các cõi
ngạ quỷ, súc sanh, a tu la, người, trời, chư thiên, Thanh văn,
Duyên giác, Bồ tát, và Phật.
324
Chan-jan (T46.200a 11-12) ghi nhận ‘thiện hạnh’ với mười
hành động thiện được chư thiên cõi Dục hướng về và
thực hành; và tứ thiền với cõi Sắc.
325
Theo Muranaka, p.154.
326
Trích từ kinh Pháp Hoa, T9.3b; Hurvitz, pp.9-10.
327
Ðó là sáu thức bên trong và sáu hành bên ngoài.
328
Trí Khải (hoặc Quán Ðảnh) không luôn luôn nói giống nhau
trong những mục sau nhưng tư tưởng căn bản thì rõ ràng.
Chan-jan (T46.200a 28-b2) giải thích: {Với mỗi mục [trong mười
hai mục] bản văn giải thích về mười cõi [của pháp giới]
và lục độ. Nhưng vì đoạn văn thường giản lược, có
khi chỉ nói đến chín cõi, có khi chỉ nói về cõi Phật.
[Trong bất cứ trường hợp nào], hoặc mở rộng hoặc tóm
tắt, hình thức đều tương quan, và cùng đưa về Viên giáo.
Hơn nữa, tại sao mỗi mục trong mười hai mục chỉ làm phong
phú lục độ? Sáu cái nầy cũng nên chứa đựng sáu cái kia.
Như vậy, mỗi độ được trang nghiêm bởi năm độ kia}.
329
Nguyên đoạn văn về tu tập lục độ hầu như được lấy
trực tiếp từng chữ từ những dòng đề tựa ‘Tùy Tự
Ý Tam Muội’ ( HTC98.344d) của tôn sư Trí Khải là tôn giả
Tuệ Tư.
330
Chan-jan (T46.200b27-28) nói: {Vì ý tưởng không sinh khởi nên
gọi là ‘không bị khó khăn’. Ở khắp mọi nơi có nghĩa
là ‘vô trụ’. Vì các uẩn... chính chúng đồng với pháp
giới, nên ‘không xáo trộn’}.
331
Chan-jan (T46.200b29-c1) nói: {Trong từng niệm người ấy áp dụng
trực tiếp vào lý, và hoàn toàn thoát khỏi những tiến trình
nơi mà cái thấy hiểu chỉ đến sau khi suy luận}.
332
Chan-jan (T46.200c3-4) nói: {Vì ý tưởng sau mỗi niệm thì đồng
với pháp giới nên không còn sự phân chia giữa sinh và diệt}.
333
Chan-jan (T46.200c5) nói: {Người ấy không chấp hai cực đoan
vì hai cực đoan chính chúng đồng với trung đạo}.
334
Theo Chan-jan (T46.200c6-7).
335
Chan-jan ghi nhận sáu nhánh là đầu, mình, hai tay và hai chân.
336
Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội Kinh, T15633b-c. Ðoạn văn có trong
nguyên bản tác phẩm ‘Tùy Tự Ý Tam Muội’ của tôn giả
Tuệ Tư. Luận tổng quát về sự lợi ích của bản kinh nầy
đối với tác phẩm của tôn giả Tuệ Tư, đọc Stevenson,
The Four Kinds of Samadhi in Early T’ien T’ai Buddhism, pp.95-96. Phần
phiên dịch đoạn văn trên, đọc Lamotte, Concentration de la marche
heroique, p.152.
337
Toàn phần nầy (từ ba đoạn văn xuống đến cuối phần luận
về tam muội và tứ ma) được lấy trực tiếp từ tác phẩm
‘Giác Ý Tam Muội’ của Trí Khải (T46.626a 14-b9).
338
Chan-jan (T46.201a 2-3) nói: {Hành giả quán cái tâm vừa phát
khởi trói buộc, thấy được ngay nơi đó không có tâm. [Không
có bất cứ tâm nào ở trong tam muội] làm cách nào hành giả
còn tưởng đến một nơi chốn mà nơi đó thủ-lăng-nghiêm
tam-muội phát sinh?}
339
Theo ý nghĩa Chan-jan (T46.201a6-7) đưa ra: {Biết chính mình đồng
thể với pháp giới và đáp ứng vạn sự vạn vật khắp
nơi- đây là ý nghĩa ‘sinh hoặc khởi như phương tiện’.}
340
Jneyavarana. Phần luận về nhiều cách dùng và hiểu của Trí
Khải về chữ nầy, đọc Swanson, Chih-i’s Interpretation of Jneyavarana:
An application of the Threefold Truth Concept. Thực sự, Trí Khải
nhìn những ‘trí tuệ chướng ngại’ như một cản trở
của tư tưởng không nung chảy được với trung đạo. Chan-jan,
khi chú giải đoạn văn nầy, nói (T36.201a 9-12): {Vì có ‘người
toan tính’ mọi thứ cho nên nghĩa của ngã hoàn toàn thô thiển.
Còn [thô bỉ] biết bao nếu có người tự ‘đánh bóng chính
mình’. Chừng nào thì [loại] nầy được xem là trí tuệ?
Cái tâm vướng mắc cản ngăn trí tuệ, vì vậy gọi là ‘tri
chướng’. Những tín đồ không đi trên đường của Phật
hầu hết phạm vào [lỗi] nầy. Vì ‘sự tự đánh bóng’
ở đây không khác với ngoại đạo, thì tại sao có thể được
xem hẳn như một bước sai lầm đối với trí tuệ trung đạo?
}.
341
Ðại Trí Ðộ Luận, T25.190b; đoạn văn trích dẩn không chính
xác.
342
Ðại Tập Kinh, T13.177b-c. Ðoạn văn nầy lấy từ một phẩm
trong Ratnacuda-pariprccha. Lập luận ở đây đặt trọng tâm
quanh câu hỏi rằng cái tâm đang thiền quán (sở quán) thì
khác hoặc giống với cái tâm đang làm việc quán chiếu (năng
quán). Phật thuyết về quán tâm dạy rằng bản tánh của
tâm không thể được hiểu rằng bên trong hoặc bên ngoài
ayatamas (lục căn, lục trần}, hoặc cả hai, hoặc trong skandhas
(uẩn) hoặc trong dhatus (xứ) (T13177b11-13).
343
Một bảng tên không liên hệ đến bốn pháp thiền của Trí
Khải, được biết là ba pháp môn giải thoát (vimoka-dvara).
Pháp môn thứ ba, tức ‘vô tác’ ở đây, được ngài Cưu
Ma La Thập và những dịch giả đời sau dịch là vô nguyện
(wu-yuan).
344
Tâm điên đảo, hoặc không có khả năng thức tĩnh đối với
chân tâm; kiến điên đảo hoặc đưa ra cái thấy ai lầm đối
với căn cảnh và thất bại trong việc nhận ra chân tánh;
tưởng điên đảo hoặc sự sinh khởi của suy nghĩ và trói
buộc. (Kinh Niết Bàn, T12.498b).
345
Các ma phiền não, uẩn, căn, trần, xứ, tử, và ma vương cõi
Dục. Chúng ma tượng trưng cho tất cả những yếu tố làm
hư hoại thiện hạnh. Ðọc Trí Khải, Thứ Ðệ Thiền Môn
(T’zu-ti ch’an-men, T46.506c-507a).
346
Tỷ dụ nầy, lấy từ kinh Niết Bàn (T12.740a), được dùng
để biểu trưng tâm niệm của Bồ Tát: một người được
lệnh vua phải mang một bình đầy dầu đi trong đám đông
người, nhưng không được phép để nhiễu ra ngoài một giọt
dầu nào, nếu không thì sẽ nhận lưỡi kiếm bén của người
đi theo sau.
347
Theo Chan-jan (T46.201c7-8). ‘Niệm dấy khởi’ được chú giải
là ‘các cõi của lục đạo luân hồi’. Chan-jan đồng nhất
chỗ nầy với sự quán tưởng về đế thứ nhất trong tam
đế- tức Không.
348
Chan-jan (T46.201c7-8) nói: {‘Chẳng trong chẳng ngoài’ chỉ
cho sự rỗng lặng của lục thức. ‘Chẳng đến chẳng đi’
chỉ cho sự rỗng lặng của lục hành}.
349
Chan-jan đồng nhất đoạn văn nầy với pháp quán về Giả
đế.
350
Ðó là mười tà hạnh trừ hạnh của tâm. Ðây là sát sanh,
thâu đạo, tà dâm (đối với thân), vọng ngữ, lưỡng thiệt,
ác khẩu, tạp ngữ (đối với khẩu).
351
Ở đây và phần dưới, Trí Khải trình bày mười thứ lớp
hoặc cấp bậc nghi lễ đạo đức (dù rằng không hẳn là
giới luật). Nội dung không đến từ bất cứ một xuất xứ
đặc biệt nào, nhưng từ nhiều chỗ trong Ðại Trí Ðộ Luận
(T25.225c-226a) và kinh Niết Bàn (T12.675a). Bảng kể tên ở đây
hơi khác với một bảng khác trong Maha Chỉ Quán (T46.36b-c).
Sự khác nhau phần lớn chung quanh sự đồng nhất của mục
thứ sáu và thứ mười.
352
Theo Chan-jan (T46.201c15) chỗ nầy bắt đầu phần nói về pháp
quán ở thứ bậc trung đạo, đế thứ ba trong tam đế.
353
Chan-jan (T46.201a19-21) thêm vào hành động tiếp nhận, để
duy trì sự song song với tam đế trong đoạn trước.
354
Ba tam muội đã nói đến ở trên.
355
Giản lược từ kinh Diệu Pháp Liên Hoa, T9.3b; Hurvitz, p.17.
356
Không rõ xuất xứ, nhưng có thể từ Ðại Trí Ðộ Luận
(T25.629b5-7): {Nếu một Bồ Tát bắt đầu dùng pháp môn tinh
tấn, người ấy sẽ vào tất cả những độ khác. ‘Tinh
tấn’ có nghĩa là thực hành kiên trì năm độ kia, thân và
tâm tinh tấn, chẳng dừng nghỉ. ‘Tinh tấn’ không có tướng
đặc biệt hoặc tách rời nó}.
357
Theo Chan-jan (T46.202a 4-9), ‘những thực hành khác’ là năm
độ kia.
Tôn
giả kkhẳng định rằng tinh tấn phải có tướng đặc biệt
vì nó ‘chỉ dẩn hoặc hướng đạo năm độ kia’}.
358
Theo Thứ Ðệ Thiền Môn (T46.480a-b) của Trí Khải các pháp
‘thiền định’ căn bản nầy chỉ cho tứ thiền và tứ
tam muội. Chín pháp thiền quán về sự chết là kỹ thuật
quán tưởng hình trạng hư hoại của một xác chết. Pháp
quán thứ chín liên quan đến sự hỏa táng hoặc sự tan rã
hoàn toàn của xác chết, và vì vậy có thể đưa đến kết
quả không còn [chấp] vào người quán và đối tượng [quán
chiếu]. Sự phủ nhận thứ tám là những phương pháp sinh
khởi và thành tựu căn bản thiền và tam ma địa (samapatti).
359
Chan-jan (T46.202b9-11) nói: {Khi cái tâm bềnh bồng đang có mặt
thì làm cách nào hành giả nhận ra được cái tâm lắng đọng?
Pháp Chỉ ở đây là chín pháp thiền, tám pháp giải thoát
v.v...Không nắm giữ bất cứ [tâm] tịnh hoặc động, hành
giả chứng ngộ được chân tánh của thiền định. Và chân
tánh [nầy] bao trùm vạn pháp}.
360
Ðại Trí Ðộ Luận, T25.402c-406b. Trong đoạn văn nầy, cả
kinh và kinh luận đều bỏ qua pháp thiền thứ chín về hỏa
táng xác chết. Trong đề mục về thiền trong Maha Chỉ Quán,
T46.121c (pháp quán thứ sáu và thứ mười), nói rằng hành
giả nên thực tập tất cả, ngoại trừ pháp sau cuối trong
chín pháp. Ðây hẳn vì hỏa táng và sự quán chiếu nầy ám
chỉ sự hoàn toàn đoạn diệt [nơi Niết Bàn], là điều không
thích hợp với Ðại Thừa. Thập lực mô tả mười trí năng
khác nhau của chư Phật. Tứ vô sở úy gồm có Ðức Phật
tuyên thuyết rằng Ngài là bậc tối thượng, hoàn toàn xa
lìa tất cả ô nhiễm, thuyết chướng đạo đạt đến giác
ngộ, và thuyết đạo vượt qua tất cả. Ðọc Ðại Trí Ðộ
Luận, T25.241b-c.
361
Không tìm được xuất xứ của tập luận nầy.
362
Ðoạn nầy trong Ðại Trí Ðộ Luận, T25.139a-140a. Ở đây,
Ðức Phật thuyết sáu định nghĩa về trí tuệ của thế
gian: là gốc rễ của trí tuệ bất nhiễm; là trí ô nhiễm;
là mỗi thứ lớp trí từ sơ phát tâm cho đến tận cùng chứng
ngộ; là cả hai trí ô nhiễm và bất nhiễm; là bất nhiễm,
vô lậu và nhất nguyên; là bất khả thuyết và hoàn toàn
vượt trên những giới hạn của tất cả những đề xướng
trên căn bản tứ cú hữu. ‘Ðịnh nghĩa thứ bảy’ nói
rằng tất cả sáu định nghĩa là đúng, là cái mà Phật chối
bỏ. ‘Ðịnh nghĩa thứ tám’ nói rằng chỉ có định nghĩa
thứ sáu là đúng, là cái mà Phật chấp nhận.
363
Cái thứ nhất và thấp nhất của ba loại trí diễn tả trong
kinh Lăng Già (T1616.500c), hai loại kia xuất thế gian trí, và
xuất thế gian thượng thượng trí. Thiên Thai Trí Khải giới
thiệu những phân biệt tương tự về thiền- thế gian, xuất
thế gian, và xuất thế gian thượng thượng- dựa vào ba trí
kinh Lăng Già đưa ra. Ðọc ‘Giác Ý Tam Muội’, T46.621c5-622a4.
364
Chan-jan (T46.202c18-19) nói: {[Câu văn] được đọc là ‘Với
sự áp dụng của mỗi thiện pháp trong mười hai đề mục
[thì như nhau]’. Tuy nhiên, đoạn văn giản lược}.
365
Ðây là hai trong chín tỷ dụ của kinh Niết Bàn (T12.793c 24-794a
10) được dùng để biểu trưng sự đồng hành của tam muội
và bát nhã. Trước hết chà xát xà-bông, rồi dùng nuớc sạch
xả; trước hết nắm cỏ vào tay, rồi thì cắt với lưỡi
liềm.
366
Trí Khải trong ‘Giác Ý Tam Muội’ (T46.622b5-623a4) hợp lục
thành tựu với lục chướng: dục hoặc tham, bất thiện (phạm
giới), giận dữ hoặc hiểm độc, lười biếng, mơ hồ, và
ngu muội. Thể thức lấy từ Ðại Trí Ðộ Luận (T25.303c-304b).
Khác với sự xếp đặt của Quán Ðảnh (Kuan-ting) ở đây,
Giác Ý Tam Muội (T46.623a1-4) nhìn lục thành tựu như ‘phương
tiện thiện xảo’ cần thiết để hàng phục tâm chướng
ngại và biết manh mối sự quán tưởng chân chính: {Lục thành
tựu bao gồm tất cả phương tiện. Một khi hành giả biết
khéo dùng chúng để điều phục tâm thô thiển với sáu chướng
ngại, và có thể khiến tâm uyển chuyển, hài hòa, thì mới
có thể dùng tâm sáng tỏ quán tưởng và vào được cổng
chánh quán. Ðây gọi là phương tiện tu tập thậm thâm tam
muội}.
367
Hoặc thực hành lục thành tựu thuộc sự tướng hoặc báo
trong các cõi địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ có thể là chủ
đề ở đây.
368
Thí dụ, Bồ Tát hoặc Phật, là các bậc tìm cách hữu hiệu
để cứu rỗi chúng sinh.
369
Không rõ xuất xứ.
370
Một tỷ dụ từ Ðại Trí Ðộ Luận (T25.262a). Ðoạn văn
nầy cho thấy rằng trừ khi Bồ Tát ra khỏi tam độc, người
ấy tương tự như một cái hủ chứa thuốc độc có thể
làm hư hoại bất cứ công đức nào rót vào đó. Chan-jan (T46.203b14-16)
nói: {Thân Bồ Tát giống như hủ chứa chất độc. Bị phiền
não chiếm ngự có nghĩa là ‘thuốc độc’. Tu tập pháp
Phật [dưới những tình huống nầy] giống như rót thuốc
tiên vào hủ [có chất độc]. Thuyết giảng những pháp nầy
cho người, [Bồ Tát] khiến họ mờ mịt ‘thân mạng’ là
Phật tánh thường trụ}.
371
Hợp với cái mà trung đạo nhận ra như một thực tại thuần
túy siêu việt và bao gồm cả hai Không và Giả.
372
T12.648a28. Ðức Phật thuyết giảng cho ngài Ca Diếp về bốn
tánh đức Bồ Ðề (thường, lạc, ngã, và tịnh), và ngài
Ca Diếp bạch rằng từ ngày nầy về sau ngài được [thực
sự] giác ngộ.
373
Chan-jan (T46.203b20-23) nói: {Nhìn một hành động thuận [với
thực tướng] là ‘thiện’ và nghịch [với thực tướng]
là ‘ác’ mô tả một vị thế tương đối. [Câu văn kế
tiếp nói rằng] ‘Nếu có người đạt đến chứng ngộ’
v.v... sự trói buộc được nhìn là ác, và sự chứng ngộ
là thiện. Người ấy phải xa lìa ác cả hai nghĩa tương đối
và tuyệt đối. Bám vào [ý niệm] về Viên [giáo] thì vẫn
là ác. [Vậy thì bám vào] những giáo pháp khác còn [là ác]
đến đâu nữa?}.
374
Một sự diễn đạt lấy từ kinh Duy Ma Cật, T14.549a.
375
Chan-jan (T46.203b24-25) nói: {Ở đây phân biệt chi tiết về
ác với nhiều nghĩa. Chỗ nầy được đưa ra như một nền
tảng quán chiếu. Trước nhất, thể tánh của ác bị khám
phá, tức lục chướng}. Kogi (2.3) nói: ‘Chỗ nầy chỉ áp
dụng cho pháp quán của kẻ sơ cơ’.
376
Mục thứ năm có trong mười mục từ Ðại Trí Ðộ Luận
(T25.229a-232c). Gồm những chủ đề về vô thường, khổ, vô
ngã, bất tịnh (đưa ra bốn lối nhìn đảo ngược) sự chết,
thức ăn dơ bẩn, cho thấy rằng thế gian không có gì vui,
và ba phẩm tánh của Niết Bàn (xa lìa, tách rời, dứt phiền
não). Mười đề mục nầy cũng được nói đến trong Thứ
Ðệ Thiền Môn của Trí Khải, T46.538c-540b.
377
Ðại Trí Ðộ Luận (T25.232a 9-12) nói về tà [pháp] là nhân
không an vui của hai phối cảnh: chúng sinh và các cõi nước.
378
Sự xứng hợp giữa hai mục và sáu sự tán loạn thì không
giống in khuôn. Chan-jan (T46.203c14-17) cố gắng chú giải đoạn
văn như sau: {Sáu sự tán loạn được nói giản lược ở
đây nhằm mục đích đưa ra ‘sự sinh khởi đặc thù [của
chướng ngại]’. Bốn cái đầu tiên như vẫn thường thấy.
Những tâm trí say cuồng, là nhân mờ mịt, mô tả sự mơ
hồ của tâm tán loạn. ‘Dễ dàng mất đi phẩm cách’ đồng
như sự ngu muội}. Muranaka (p.164) cống hiến một bản văn
uyển chuyển hơn, là bản chúng tôi đang dò theo ở đây.
379
Tù bản kinh Ðại Thừa ‘Ương quật ma la’, T2.512b. Câu chuyện
như sau: ‘Một người học trò trẻ dòng Bà la môn, bị vợ
ông thầy của mình ve vãn, từ chối không làm như ý người
đàn bà. Bà nầy giận dữ và bịa chuyện với chồng rằng
người học trò trẻ của chồng muốn ép uổng bà ta. Ông
thầy ra lệnh Ương quật ma la phải giết đủ một ngàn người
để được tha tội. Người học trò tuân lệnh thầy, đi
vào chợ giết người và cắt một ngón tay của mỗi nạn
nhân kết xâu đeo vào cổ. Khi đang tìm giết người cuối
cùng là mẹ mình thì gặp được Phật. Trước hết Phật
khiến người nầy rời khỏi người mẹ, sau đó thuyết pháp,
người nầy đắc quả A la hán và được sáu thần thông.
380
Lấy từ kinh Maha-maya (Ma Ha Ma Da) (T17.585a-b). Khi một người
con của vua Ba Tư Nặc (Prasenajit) là Kỳ Ðà (Jeta) thường
bị ép uống rượu trong những lúc giao tiếp với người.
Thái tử luôn cố gắng kiểm soát chính mình, và nghĩ rằng
uống ruợu với người là việc quan trọng để giữ liên
hệ với nhau. Vì vậy thái tử xin Phật rút lại lời nguyện
giữ ngũ giới cư sĩ, và thay vào đó tránh mười tà hạnh,
là những giới không cấm uống ruợu. Ðức Phật khen ngợi
và chấp thuận lời thỉnh cầu.
Cũng
trong kinh nầy (T17.585b-586a) kể lại câu chuyện của bà Mạt
Lỵ (Makika), vợ vua Ba Tư Nặc, là người đã nói dối, trang
điểm thân mình để cám dỗ, chầu hầu và chuốc rượu cho
vua. Những cử chỉ phạm giới nầy của phu nhân nhằm mục
đích làm vua nguôi ngoai, bỏ qua ý định giết người đầu
bếp đã làm vua nổi giận. Vì hành động của phu nhân thiện
và thanh tịnh, nên được Ðức Phật khen ngợi.
Chan-jan
(T46.205a 4-7) ghi chú: {Câu chuyện phạm giới để cứu chúng
sinh vì lòng mong cầu làm lợi ích chúng sinh của Bồ Tát.
Như vậy gọi là ‘thiện giữa ác’}... Bất cứ ai muốn
làm theo những thí dụ nầy, phải tự xét mình. Nếu người
ấy chỉ vì vọng dục thì không phải là lý do đúng để
phạm giới}.
381
Từ phẩm ‘Nhập Pháp Giới’ kinh ‘Hoa Nghiêm’, T9.716c-717b.
Bà Tu Mật Ða (Vasumitra)- là một trong năm mươi ba vị thiện
tri thức, là những bậc mà Thiện Tài đồng tử được gặp
trên bước đường cầu đạo- là một người đàn bà thông
minh, trẻ đẹp thường mời mọc những người đàn ông [hiếu
sắc] đến với bà để nhân đó mà thuyết giảng chánh pháp.
382
Từ phẩm ‘Ðề Bà Ðạt Ða’, kinh Pháp Hoa (T9.34b-35a), Hurvitz,
pp. 195-197. Dù rằng vị nầy bị nhìn như người tà kiến
phá Phật, hại tăng đoàn, kinh Pháp Hoa miêu tả Ðề Bà Ðạt
Ða như một đại Bồ Tát hành Phật đạo.
383
Chan-jan (T46.205c22-24) nói: {‘không thể ngăn chận’ có nghĩa
là tà [pháp] có thể thay hình đổi dạng. Chúng khiến người
thực hành pháp chỉ quán ngay khi đang ở giữa tà vạy. Tuy
nhiên, hành giả nhất định không được [lấy việc nầy
làm nhãn hiệu và tự vẽ cho mình con đường] không ngừng
tham đắm vào tà pháp, nếu không thì sẽ vĩnh viễn là phàm
phu. Ðiều nầy không có nghĩa rằng tà pháp không làm chướng
ngại [đạo]. [Bản văn] cũng nói rằng ‘đạo không chướng
ngại tà’ để cho thấy rằng ngay cả khi hành giả [trên
đường] hướng về chỗ giác ngộ, tà tâm vẫn chưa phải
là dứt hẳn}.
384
Chan-jan (Trạm Nhiên) nhận diện chỗ nầy với câu chuyện
của ngài Nanda, nhưng không đưa ra chi tiết liên hệ trong Ðại
Trí Ðộ Luận (T25.70c), cùng xuất xứ với hai tỷ dụ tiếp
theo sau. Cả ba câu chuyện cho thấy chư vị A la hán và Duyên
Giác khác với Phật [như thế nào]. Câu chuyện của ngài Xá
Lợi Phất cho thấy tập khí của tâm sân vẫn còn, câu chuyện
của Nan Ðà cho thấy tập khí tham dục, câu chuyện của Dư
Tập cho thấy tập khí của ngã. Chuyện ngài Nan Ðà là một
câu chuyện nhiều người biết đến, được ghi lại trong
văn học và những ngụ ngôn Phật giáo. Ðọc Lamotte, Traité,
(1.118). Nan Ðà từ giả vị hôn thê để gia nhập tăng đoàn
nhưng lòng không thôi vương vấn bóng dáng người yêu. Ðể
diệt tâm mơ tưởng của ông, Ðức Phật [dùng thần thông]
đưa ông lên cung trời Ðao Lợi, cho ông thấy những thiên
nữ xinh đẹp bội phần hơn người cũ, và bảo rằng kiếp
sau ông có thể được bất cứ cô nào ông ưng ý, với một
điều kiện là kiếp nầy ông phải ở lại tăng đoàn, sống
đời sống của một tu sĩ. Khi Phật dạy lại cho những tu
sĩ khác về việc nầy thì tất cả mọi người đều cười
chế nhạo Nan Ðà. Xấu hổ, ông liền từ bỏ lòng ái dục
và đắc quả A La Hán.
Một
câu chuyện được ghi trong ‘Tự Thuyết Kinh’ (Udana-varga)
(T4.699b-c): Xưa kia có một người đàn bà bị người chồng
đa dâm áp bức trong việc sắc dục. Người đàn bà tìm gặp
một tăng sĩ để hỏi ý kiến, vị nầy khuyên bà về hỏi
lại chồng rằng đó có phải là hạnh của một Tu Ðà Hoàn
(sơ quả trong tứ quả A la hán). Nguời đàn bà làm theo lời
khuyên, chồng bà xấu hổ liền đắc được quả A na hàm
(quả thứ ba). Chú giải của Chan-jan về đoạn văn nầy trong
Maha Chỉ Quán được thấy là kết hợp hai bản văn vào một.
385
Ðại Trí Ðộ Luận, T25.71a. Vị tăng sĩ tên Dư Tập (Pilindavatsa)
có ý muốn băng ngang sông Hằng để khất thực. Ðến bờ
sông, ông búng tay và nói với con sông ‘Tiện tỳ, hãy dừng
chảy!’ Con sông nghe lời để ông đi qua, nhưng thần phách
của sông đi đến chỗ Ðức Phật và than phiền về việc
mạ lỵ nầy. Ðức Phật dạy ông Dư Tập hãy nói lời hối
lỗi với thần sông. Ông vâng lời Phật, đi đến bờ sông,
chắp tay lại, và nói với thần sông rằng: ‘Tiện tỳ, đừng
giận, ta hối lỗi với ngươi!’. Những người nghe được
đều cười. Tuy nhiên, Phật xác nhận với thần sông rằng
đó là lời xin lỗi chân thật. Chỉ vì ông Dư Tập hơn năm
trăm kiếp từng là một bà la môn, thường kiêu mạn và mắng
nhiếc người khác. Giờ thì ông không còn những tánh xấu
ấy, nhưng chưa bỏ được lối nói ngày xưa. Như vậy, ngay
cả Ðại Trí Ðộ Luận cũng xác nhận rằng dù A La Hán là
bậc đã diệt phiền não, nhưng vẫn còn tập khí (vasana).
386
Ðại Trí Ðộ Luận, T25.70c-71a. Ðức Phật bảo ngài Xá Lợi
Phất rằng ngài đã ăn phải thức ăn bất tịnh, ngài liền
ói tất cả ra, giận dữ thề rằng từ nay sẽ không nhận
biệt thỉnh hoặc tiếp xúc với đàn na thí chủ. Vua Ba Tư
Nặc rất bối rối về chuyện nầy, và bạch cùng Phật rằng
vua khó có được lòng tin dưới những sự kiện như vậy,
vì vua rất thường được nghe những lời pháp vi diệu của
ngài Xá Lợi Phất. Ðức Phật dạy vua rằng tâm ngài Xá Lợi
Phất vẫn không thay đổi, vì ảnh hưởng của nghiệp quá
khứ, ngài là một người rất khó thuyết phục. Có kiếp
ngài là một loài rắn độc lớn, đã cắn một vị vua. Vị
thầy thuốc của vua dùng pháp thuật buộc ngài hoặc là phải
nuốt nọc độc của mình hoặc là chịu thiêu trong lửa đỏ,
ngài đã chọn giải pháp thứ hai.
387
Xuất xứ của tỷ dụ nầy từ một đoạn văn trong bài tựa
của Trí Khải trong tác phẩm Giác Ý Tam Muội, T46.621a14-b5.
Chan-jan (T46. 206b5-8) giải thích : {Trong hư không chẳng có sáng
hoặc tối, vì sáng và tối là những hình tướng đối đãi
lẩn nhau. Cũng như vậy, [bầu] ‘không hư’ của pháp tánh
vốn chẳng chánh chẳng tà. Chỉ vì dựa trên kiến giải của
phàm phu mà chúng ta nói tà chánh ngăn ngại nhau. Như sự kiện,
tà chánh- khác lối hiểu bởi Tiểu Thừa và người thế gian-
không ngăn ngại nhau vì thể tánh (t’i-hsing) của chúng không
phải là hai. Ai là kẻ đến được sự chứng ngộ nầy sẽ
chắc chắn làm hiển lộ Bồ Ðề. Ðây là lý do tại sao khuyến
khích hành giả tu tập chỉ quán ngay giữa lòng thế tục.
Chứng ngộ được tà không phải tà, và hiểu được thể
tánh của tà tức biết rằng, ngay nơi thể tánh đó, vốn
chẳng có chánh cũng chẳng có tà}. Kogi (2.19) lấy những lời
của Chan-jan như tấm ván để bàn cãi về [yếu tố] tà có
sẳn trong Phật tánh.
388
Chan-jan (T46.206b11-15) giải thích: {Ngay cả khi dùng tất cả
chín pháp thiền v.v... để tiêu diệt và hàng phục [phiền
não], [những phiền não nầy có thể trở ngược lại] càng
gia tăng. Vì vậy hành giả nên dùng bốn [pháp] đã nói để
phân tích. Hành giả để tâm tịnh nghỉ, nhưng quản thúc
thân và khẩu. Tư duy về [tâm ái dục] một cách tận tường
qua pháp quán tưởng, ngay đó diệt ái dục. cùng ý nầy cho
nên bản văn nói ‘không có sự sinh khởi của chướng ngại
thì không có cơ hội thực tập quáp quán}.
389
Chan-jan (T46.19-26) giải thích đoạn nầy như sau: {Lòng ái dục
nặng nề ví như sức mạnh của cá lớn. Sự tu tập quán
chiếu một cách hờ hững sánh với sự mong manh của sợi
dây câu. Hành giả e sợ rằng sức định của mình quá nhỏ,
sẽ không hàng phục được ái dục. [Vì] ái dục không thể
bị diệt trừ ngay một lần, hành giả quay sang dùng pháp quán.
Vì vậy bản văn nói rằng ‘[cá] không thể lập tức bị
kéo [ngay lên bờ]’. Phương pháp quán chiếu là lưỡi câu;
để cho ái dục sinh khởi là miếng mồi}.
390
Tỷ dụ nầy xuất xứ từ Ðại Trí Ðộ Luận (T25.526b): {Giống
như một con cá lớn đang gậm nhấm miếng mồi câu: dù rằng
nó vẫn còn có thể bơi lội trong ao hồ, người [buông câu]
biết rõ rằng sẽ chẳng được bao lâu. Một hành giả tu
tập đạo cũng giống như vậy, khi người ấy có được lòng
tin và an lạc với trí tuệ, thì người ấy sẽ không còn
tiếp tục sống đời luân lạc bao lâu nữa}.
Chan-jan
(T46.206b27-28) giải thích ‘nắm kéo lên bờ’ như sau: {Khi
vọng dục đã bị tận diệt và pháp quán thành tựu, thì
gọi là ‘nắm kéo lên bờ’. Sự thành tựu là ‘nắm lại’.
Vào được [Bồ Tát đạo] có nghĩa là ‘lên bờ’}.
391
Ý nghĩa đoạn văn ở đây không rõ.
392
Phương pháp áp dụng bốn trạng thái mô tả đoạn văn theo
sau (xuống đến chỗ chứng ngộ tánh rỗng lặng rốt ráo
và đồng thời chiếu soi của nhị đế) là đoạn giản lược
của một đề mục rộng trong Giác Ý Tam Muội, T46.623c4-624b28.
393
Chan-jan (T46.206c8-9) nói: {Ái hoặc dục đặt trước vì đứng
đầu trong sáu chướng ngại}.
394
Phương pháp áp dụng bốn trạng thái hoặc ‘tứ cú’ (catuskoti),
chỉ cho những tác phẩm của Thiên Thai Tông như ‘luận về
tánh bất khả đắc của ‘Tứ Cú Suy Kiểm’. Ở đây, khái
niệm tự nhiên về sinh diệt qua bốn tác động của tâm được
phân tích rõ rệt theo các cách như sau: (1) x, (2) không phải
x (3) cả x và không phải x, (4) chẳng x, chẳng không phải
x. Ðiều nầy để nói rằng đi sâu vào sự chuyển động
thực sự của nguồn tâm (trong trường hợp nầy là ái dục)
để xác định một cách chính xác loại tiến trình nào chiếm
chỗ khi từ không vào có. Có phải rằng cái trước đó (cái
đầu tiên trong bốn cái) diệt đi để cái sau có mặt? Hoặc
là cái sau có mặt mà cái trước không phải diệt? Hoặc cả
hai? Hoặc chẳng cả hai? Cấu trúc đặc biệt mà Trí Khải
dùng trong bốn lối phân tích dựa vào phẩm thứ VII (Quán
ba tướng) trong tác phẩm Trung Luận (T30.9a) của Bồ Tát Long
Thọ.
395
Có phải rằng chúng xảy ra như một biến cố cùng một thời
điểm?
396
Chan-jan (T46.206c13-15) nói: {Diệt và sinh thì trái nghịch. Nếu
sinh xảy ra đồng thời hoặc trùng hợp với diệt, thì chỗ
nầy mâu thuẩn. Tương tự như nói rằng ngọn đèn tắt thì
ánh sáng chiếu rọi. Thực không có căn bản như vậy. Mặt
khác, nói rằng sinh chiếm chỗ biệt lập [với diệt] là để
ám chỉ rằng sinh xảy ra tách rời với diệt- đơn độc và
hoàn toàn riêng rẽ. Như vậy tức là ‘vô nhân’. Giống
như ánh sáng tự chiếu rạng mà không có sự ‘diệt’ ngọn
đèn [lúc chưa thắp sáng]. Hơn nữa, nếu có người tin rằng
sinh có thể không cần đến nhân, thì sinh sẽ được thấy
xảy ra trong tất cả mọi thời nơi không có nhân, như là
có sữa đặc mà không cần có sữa [tươi], hoặc là ý tưởng
sẽ phát khởi từ gỗ và đá.}
397
Giác Ý Tam Muội (T46.623c23-624a4) nói: {Nếu sinh (trong trạng
thái sắp-nghĩ) xảy ra trùng hợp với bất-diệt (trong trạng
thái chưa-nghĩ), bất-diệt đã ám chỉ sự có mặt của sinh.
Làm cách nào cái sinh nầy có thể xảy ra? Nếu cái [đã] sinh
[sau đó] có thể sinh ra cái [mới] sinh, thì ở đó có thêm
một cái sinh. Sự sinh sẽ là vô cùng tận. Nếu có một thể
đối với cái sinh nầy, cái bình đẳng nầy (sameness) sẽ
không lấy vô số cái sinh, giống như không thể có vô số
ngón tay trong một ngón tay. Nếu cái sinh là một cái gì khác
với thể của nó, thì nó không thể được gọi là ‘sinh’...
Nếu có người nói rằng sự sinh của cái sắp-sinh đứng
tách biệt với cái bất-diệt của chỗ chưa-nghĩ (một trong
bốn chuyển động của tư tưởng), thì dựa vào đâu mà cái
sắp-nghĩ sẽ sinh ra? Nếu cái sinh không có căn bản để sinh
thì là sinh [từ] không nhân}.
398
Chan-jan (206c25-29) nói: {Nếu cả hai [diệt và bất diệt của
vị trí chưa-ái] đồng thời có mặt [khi sắp-ái sinh], thì
chúng ta đã gây ra một cách mâu thuẩn sự sinh của [một]
quả. Như vậy cả hai diệt lẩn nhau vì không cần thiết.
Vì nó [đưa ra nghĩa] cả diệt và bất-diệt [cùng một lúc]
nên chúng ta nói rằng [nhân là] ‘bất định’. Làm cách
nào [một cái nhân bất định như vậy] có thể sinh ra một
quả nhất định- tức cái sinh nhất định [sắp-ái]?}
399
Chan-jan ((T46.207a 9-11) nói: {Pháp quán kỳ diệu nầy giả lập
ra khách và người tiếp khách (tức tên tạm gọi đối tượng
quán chiếu và phương pháp phân tích). Rồi thì tư tưởng
niệm theo niệm sẽ được khảo nghiệm nghiêm túc, đến đổi
sẽ không có một khoảnh khắc nào tâm thoát ra ngoài [sự
minh sát]. Khi [tất cả khái niệm ] về tánh và tướng đều
diệt, thì gọi là ‘không’. Bởi vì tâm tình và sự bộc
phát của nó là rỗng lặng, hành giả không tiếp nhận bất
cứ cái sinh nào từ sắp-ái}.
400
Trong đoạn văn nầy Trí Khải và Quán Ðảnh không quan tâm
nhiều đến sự chuyển động trong bốn trạng thái tư tưởng
và từ bốn trạng thái tư tưởng. Mỗi sự chuyển động
ám chỉ sự tương tác của hai trạng thái. Nếu, trên căn
bản tứ cú, hành giả thực hành tất cả những hoán chuyển
tương sinh tương diệt của hai trạng thái, có mười sáu cách
hoán đổi trong từng chỗ tiếp giáp. Có bốn khoảng cách
ở giữa (từ cái cuối cùng đến cái đầu tiên), tổng cộng
là sáu mươi bốn thể thức. Trí Khải chỉ luận về bốn,
và đưa ra bốn cái khác (trong đoạn văn sau cùng). Chan-jan,
trong phần chú giải (T46.207a11-207c23) nói đầy đủ cả bốn
loại.
401
Chan-jan (T46.207c23-208a2) nhấn mạnh vào tính cách khít khao của
pháp định nầy, nói: {Tất cả có mười sáu mệnh đề cho
từng mỗi bốn [chỗ tiếp giáp]. Dĩ nhiên, nếu hành giả
có thể đạt đến giác ngộ ngay khi thực hành pháp quán,
chỉ một mệnh đề là đủ. Có cần gì phải làm tất cả
sáu mươi bốn [pháp]? Ðó là vì có những người độn căn
thường đưa ra sự sai lệch trong việc mở ra mỗi chặng mà
chúng tôi đã cố công bác bỏ toàn bộ sáu mươi bốn mệnh
đề. Luận về tứ cú đối với ba sự giả lập, tiểu phẩm
V [của Maha Chỉ Quán] có thuyết giảng đầy đủ. Nhưng nếu
hành giả nhìn tường tận điểm căn bản của phẩm nầy,
sự thực nghiệm tức khắc bất cứ [mệnh đề nào] đều
sẽ hiển lộ cảnh giới bất khả tư nghị. Ðoạn văn nầy
áp dụng vào phương pháp giải thích đặc thù [thực hành].
Như vậy, sáu mươi bốn mệnh đề được nói một cách đơn
giản đưa đường ‘bước vào Không’. Ở đây, với những
người đã nhận chân được nguyên lý bất khả tư nghị,
vào khoảnh khắc từ bỏ niệm dục, diệu cảnh lộ bày sống
động. Nhưng ngay cả với người ấy, các [phương thức] trợ
đạo thuộc sự tướng vẫn cần thiết. Chánh và phụ vẫn
phải được dùng}.
402
Theo Chan-jan (T46.208a12-20) sự có mặt của sinh và chiếu soi,
dù rằng không có ý niệm về sinh và chiếu soi cho thấy rằng
Không chẳng làm chướng ngại Giả, nhưng cả hai đồng thời
chiếu soi lẩn nhau.
403
Mặc dù, một cách thông thường, chỗ nầy chỉ cho bốn đức
tánh Phật tánh nói trong kinh Niết Bàn, ở đây có ý nói đến
bốn quả thánh A la hán.
404
Không, Vô Tướng, Vô Nguyện.
405
Nhiều cõi thuộc sự tướng cân xứng với mười cõi hoặc
cảnh giới trong pháp giới. Cõi thứ năm, là cõi A tu la, bị
bỏ qua; sáu độ và ba tam muội cùng chung ở bậc thứ chín,
là cảnh giới của Bồ Tát.
406
Cùng lúc chiếu soi cả hai Không và Giả.
407
Tam đế: Không, Giả, và Trung Ðạo.
408
Chan-jan (T36.208b14-16) nói: {Sự tương thông nầy giữa pháp
tánh và chướng ngại được thuyết trên căn bản lý. Giống
như sóng và nước không ngăn ngại nhau. Tất cả những chỗ
nầy, cho đến [đoạn văn liên quan] sự tương tức của pháp
tánh và chướng ngại trong sinh và diệt, có ý muốn nói rằng
pháp tánh được thấy ngay nơi chướng ngại.
409
Một đoạn văn trong ‘Chư Pháp Vô Hành Kinh’ (Chu-fa wu-hsing
ching, T15.759c).
410
T14.549a. Chan-jan (T46.208b29) nói: {Vô-đạo là những chướng
ngại. Phật đạo là thể tánh [của vạn sự]}.
411
Cùng chỗ, T14.542b.
412
Cùng chỗ, T14.548a.
413
Cùng chỗ, T14.549b. Ở đây, Ngài Văn Thù giải thích rằng
hạt sen phải được gieo trong đất bùn, và sẽ không bao giờ
đâm chồi giữa khoảng không, hạt giống Bồ Ðề chỉ đơm
hoa chỉ khi nào được gieo trồng giữa phiền não u uất của
thế gian.
414
Tỷ dụ về vị nước biển có thể lấy từ kinh Niết Bàn,
T12.805a-b. Ở đây Ðại Niết Bàn (mahaparinirvana) được nói
rằng không thể tư nghị trong tám cách như biển. Cách thứ
ba là tất cả cùng vị mặn. Ðại Trí Ðộ Luận, T25. 752a5,
cũng có cùng tỷ dụ. Tỷ dụ về màu của núi có ghi trong
Ðại Trí Ðộ Luận, T25.752b-c, các tác phẩm không phải là
kinh sách Phật theo đó mà cho rằng đó là núi Tu Di, trung tâm
của thế giới, chỉ có một màu.
415
Cái thứ ba trong Lục Tức. Hai cái đầu tiên (lý tức và văn
tự tức) đã bị lướt qua vì không liên hệ đến sự thực
hành.
416
Cái thứ tư trong Lục Tức, tương đương với quả vị Thập
Tín hoặc bộ mười quả vị thứ nhất trong năm mươi hai
quả vị. Ở đây cái hành giả chứng đắc tương tự chân
lý trung đạo.
417
Thứ hai trong sáu chuyển luân vương được nói trong kinh ‘Nhân
Vương Ba La Mật’ (Jen-wang p’o-lo-mi ching), T8.826b-829a. Thiên
Thai Viên Giáo giải thích như biểu tượng của các quả vị
Bồ Tát đạo, và thích ứng với đường vào thập trụ hoặc
phần chứng tức.
418
Cũng gọi là phần-chân-tức, là cái thứ năm trong Lục Tức.
Ở đây căn bản vô minh là cái che mờ chân lý không thể
nung chảy của trung đạo, bắt đầu tan rã. Chỗ nầy gồm
quả vị thứ 41 trong số 52 quả vị, kể từ thập địa cho
đến đẳng giác gần quả Bồ Ðề tối thượng. Từ 41 quả
vị nầy, vô minh dần dần bị phá, và trí tuệ trung đạo
càng lớn mạnh.
419
Chan-jan (T46.208c28-29) nói: {Lục Tức biểu thị những khác
biệt từ cạn đến sâu được mô tả theo đường dọc. Nhưng
Lục Ðộ thì cũng phơi bày không có trước sau, được mô
tả theo đường ngang}.
420
Ðây là cái thứ ba, không phải thứ hai, trong sáu chướng
ngại.
421
Chan-jan (T46.209a 5-6) cho rằng đây là 16 mệnh đề thứ nhất
trong số 64 mệnh đề được ám chỉ qua những chữ ‘sinh’
và ‘diệt’.
422
Sáu hành và sáu thức.
423
Chan-jan (T46. 209a9) nói: {tánh Tịch và diệt của sự tướng
biểu thị Không}.
424
Chan-jan (T46.209a 9-10) nói: {mười cõi biểu thị Giả}.
425
Chan-jan (T46.209a28) nói: {bốn tánh đức Thường, Lạc, Ngã,
và Tịnh biểu thị Trung Ðạo}.
426
Chan-jan (T46.209a 28) nói: {Nếu có người luận chi tiết, tất
cả những pháp ở ngoài những thành tựu và chướng ngại
có thể được gọi là không pha trộn hoặc vô ký. Vì lý
do nầy, pháp quán về vô ký phải được kể}. Kogi (2.42) trích
A-tỳ-đạt-ma khẳng định rằng một sự gọi tên thì minh
bạch hơn. Trong số 64 tâm pháp trong hệ thống 72 pháp được
A-tỳ-đạt-ma khai mở, có 6 thứ bậc: ba pháp tà (tổng cộng
18), mười pháp thiện, mười pháp vô ký, và mười tám pháp
bất định, (T29.84a-b).
427
Ðại Trí Ðộ Luận, T25.588a.
428
Chan-jan (T46.209b1-5) nói: {Nếu tướng của tâm [vô ký] không
được làm cho hiển lộ, thì cự kỳ khó khăn để tập hướng
về như một đối tượng [quán chiếu]. Nếu hành giả đối
chiếu chúng với thiện ác và mô tả những sự giống nhau
hoặc khác nhau, thì vô ký có thể được nhận diện và đối
tượng quán chiếu được thành lập}.
429
Chan-jan kêu nài rằng Trí Khải đã bỏ qua cách [thành lập]
bốn giả thuyết ở đây, và thay vào đó một sự so sánh
giữa vô ký và sự dung hợp. Chan-jan (T46.209b4-7) nói: {Bởi
vì tánh của nó là bất định, và bốn tác động của tâm
thì không hiển lộ một cách rõ ràng, chúng tôi khảo sát
riêng tứ cú đối với sự đối nghịch [giữa vô ký] và
sự hỗn hợp của thiện và ác. Nếu có người tham chiếu
về sự hoán chuyển một cách đầy đủ, cũng sẽ thấy có
mười sáu mệnh đề. Ðó là để nói rằng, sự sinh của
vô ký, sự vô sinh của vô ký, cả hai, và chẳng cả hai, mỗi
chỗ có bốn mệnh đề. Vì bốn trạng thái không được nói
đến ở đây nên không cần phải phân tích rộng ra sáu mươi
bốn mệnh đề}.
430
Chan-jan (T46.209b) nói: {Thể tánh của niệm vô ký và thể tánh
của niệm thiện ác thì không khác nhau. Với thể: chúng vốn
là một, với danh: chúng có khác. Vì vậy chúng ta nói rằng
‘chẳng tụ hội chẳng chia lìa’}.
431
Chan-jan (T46.209b16-17) nói: {Câu thứ nhất trình bày cái thấy
Không; mười pháp giới, cái thấy Giả; và pháp tánh, trung
đạo}.
432
Chan-jan (T46.209b23-25) giải thích: {Ý niệm về ‘cái thiện
sau cùng’ được xác định trong tương quan với nhiều cái
ác. Trước hết, hành giả áp dụng sự phân biệt giả tạm
giữa thiện và ác, rồi thì làm sáng tỏ ý nghĩa nơi mà cái
thiện đồng với Viên [giáo]. Vì sự viên toàn ở lại chỗ
sau cùng, đây gọi là tiệm [giáo]}.
433
Chan-jan (T46. 209b27-28) nói: {Sự diễn tả ‘thiện lẩn ác’
ở đây có nghĩa rằng mỗi động tác đều đồng với pháp
giới trong ba lối thấy, hoặc là chúng ta nói về những tướng
ác hoặc nói về hạt giống thiện của lục độ}.
434
Theo Chan-jan (T46.209c2-3), đây là một lối diễn đạt được
dùng về sau trong Maha Chỉ Quán (T46.68b) là tên gọi cách thứ
tư trong mười cách dùng tứ cú. Có nghĩa rằng bốn dòng tứ
cú ‘có thể được dùng uyển chuyển’ đối với phàm phu,
Nhị Thừa, Bồ Tát, và Phật (về Hữu, Không, diệc Hữu diệc
Không, phi Hữu phi Không).
435
Chan-jan (T46.209c10-17) giải thích: {Những dòng mở đầu đoạn
văn nầy chỉ thẳng rằng [tứ tam muội] chỉ khác nghi thức
nhưng cùng [hướng về] lý. Nó cũng đặt [pháp thực hành]
Tùy-Tự-Ý tam muội vào vị trí khác với ba [tam muội] kia.
Tại sao? Cho thấy rằng chúng chỉ khác nhau ở cường độ
mà chúng làm chướng ngại đạo. Dù như vậy, sự thâm nhập
vào lý thì không khác}.
Vấn:
{Trong pháp thường-tọa, hành giả quán ba chướng ngại...
Trong [tam muội] thường-hành hành giả quán ba mươi hai tướng
của Phật; trong phương đẳng, diễn đạt phương đẳng đà
la ni; trong pháp hoa [sám pháp], voi trắng sáu ngà... Trong Tùy-Tự-Ý
tam muội hành giả quán thiện ác và vô ký [hành động và
tư tưởng]. Mỗi pháp quán đều đặc thù. Tại sao ông lại
nói rằng chúng không khác?.
Ðáp:
{Tất cả những mô tả trên đều dựa vào [nghi thức] thuộc
sự tướng để áp dụng pháp quán. Nếu có người thấy được
sự thấy, thì không có gì đứng biệt lập trong tâm. Cũng
chẳng có một khoảnh khắc nào cái lý mà người ấy quán
lại không đồng với tam đế}.
436
Câu văn ‘chúng cũng làm chướng đạo’ (tung chang tao) dường
như mơ hồ. Có những chứng cớ rõ ràng hơn trong các bản
văn khác của Trí Khải, được đọc ‘tạo tác những chướng
đạo’. Như vậy các nghi thức của ba tam muội trước có
thể được hiểu hoặc ‘tạo ra’ những chướng đạo (bằng
cách khuyến khích sự trói buộc một cách thật thà vào nội
dung nghi lễ) hoặc ‘khơi dậy’ những chướng đạo sẳn
có như pháp đối trị chúng. Với những tác phẩm của Trí
Khải về thiền, đọc Thứ Ðệ Thiền Môn, T46.501a-508a; 491c;
Maha Chỉ Quán, T46.49b, 102c, 111c22-112114c) thường nói đến
tịnh lực (và vai trò) của những cách thức tu tập và nghi
lễ hài hòa nghiêm túc để ‘khơi dậy’ những nghiệp chướng
tiềm ẩn khiến chúng tác động dưới hình thức phiền não,
tật bệnh, lối nhìn... Một khi đã lộ bày, cũng có thể
hàng phục và diệt được chúng, đưa đến những bước tiến
lớn trên đường đạo. Ba tam muội trước, với hình thức
nghiêm trang, màu sắc sùng kính, và rất đổi tĩnh lặng được
dành đặc biệt cho hai cái dụng ‘điều’ và ‘phục’
chướng ngại. Với nghĩa sau, Kogi (2.74) giải thích ‘những
yếu tố có thể làm chướng đạo’ là sự tác động của
nghiệp.
437
Chan-jan (T46.209c18) nói: {Từ câu ‘nếu có người chỉ riêng’...
cho thấy rằng lý tuyệt đối thiết yếu khiến cho sự tướng
tu tập có kết quả. Câu văn từ ‘không hiểu sự diễn đạt
của lý quán’... giải thích rằng hành giả phải dựa vào
lý như nền tảng về mặt thực hành như thế nào}.
438
Chan-jan (T46.209c22-23) nói: {Ðây không phải có ý nói rằng
những phương pháp rõ rệt thì không cần thiết [đối với
Tùy-Tự-Ý tam muội]. Ở đây chỉ có nghĩa rằng những phương
pháp rõ rệt không được đưa ra dưới những hình dáng cố
định trong sự tu tập tam muội nầy. Như vậy, ‘phương pháp
rõ rệt’ là cái thuộc về ba tam muội kia}.
439
Làm những hành động khiến họ trôi lăn trong các cõi thấp
hơn.
440
Chan-jan (T46.210a3) nói: {Có những người ở phương Bắc sông
Hà và phương Bắc sông Hoài đưa ra nghĩa sai lạc về Không,
trong khi lớn tiếng tự xưng là Ðại Thừa}.
441
Chan-jan (T46.210a 4-6) nói: {‘ngăn cấm’ có nghĩa là ‘kiểm
soát’, vì với tiểu xảo, con ngườii có thể ngăn giữ hoặc
kiểm soát được loài vật. Ái dục giống như rắn độc;
phương pháp quán chiếu, ý nghĩa của sự ngăn giữ. Tu tập
pháp quán ái dục giống như bắt rắn. Nếu hành giả không
sử dụng được tứ cú, giống như không có phương tiện
đúng để tự gìn giữ... Nếu hành giả mang theo pháp quán
vi diệu, vào khu rừng lục cảnh, gặp rắn ái dục, ghì đầu
rắn bằng bốn trạng thái [chuyển động] của tư tưởng,
nắm giữ nó bằng quán tưởng, thì nọc độc của rắn sẽ
không tuôn ra những hành động [ác], khiến hành giả mê mờ
pháp thân thanh tịnh và thường trụ}.
Tỷ
dụ nầy lấy từ Alagaddupama Sutta trong kinh Trung A Hàm (Madhyamagama,
T1.763b-764b). Một vị tăng tên là Arista đã hiểu lầm pháp
trung đạo của Phật, biện luận rằng ái dục là đạo. Phật
ví vị tăng nầy với người bắt rắn độc mà không biết
gì về việc nầy, nắm lấy thân rắn khiến nó quay trở lại
cắn ông. (Ðọc Horner, The Collection of the Middle Length Saying,
1.167-182).
442
Chan-jan (T46.210a 24-27) nói: {Những vị thầy trước kia vừa
độn căn vừa bị chướng ngại nặng nề. Vì không thành
công trong đường lối tu tập thiện hạnh căn bản, họ bỏ
cuộc, dấn thân vào tà hạnh, và [từ đó tạo ra] những cái
giông giống như quán tánh Không. Họ cắt nghĩa rằng đây
là cái thấy hiểu về tánh Không và tự nhận rằng họ đã
chứng ngộ thâm sâu. Ðây là sự thất bại của riêng cá
nhân họ. ‘Không biết được căn tánh người khác’ v.v...
là sự thất bại trong việc thuyết giảng cho người}.
443
Kogi (2.50) nói chuyện nầy có nghĩa rằng khi một ông thầy
tình cờ dạy được học trò mà không hiểu tại sao lại
thành công và được lợi ích.
444
Chan-jan (T46.210b7) nói: {‘Mù và không có mắt’ v.v... đưa
ra những thất bại của những môn đồ là những người chấp
nhận giáo pháp của ông thầy. ‘Mù’ có nghĩa là không có
mắt để thấy [biết tầng lớp thâm viễn của] giáo lý.
Khi tu tập thiện pháp mà không đưa đến kết quả thì gọi
là ‘độn căn’. Khi ái dục hẫy hừng thì gọi là ‘phiền
não nặng nề’. Chạy theo ái dục và vọng động của tâm
tư thì gọi là ‘gây ra nhiều tà vạy khắp nơi’}.
445
Chan-jan (T46.210b7) ghi nhận: {Bởi vì [những tệ trạng nầy]
vẫn có mặt trong suốt đời nhà Tùy nên Trí Khải nói: ‘vẫn
chưa sửa sai được’}. Trí Khải có thể muốn nói đến
cuộc đàn áp Phật giáo vào thời Bắc Chu (574-577), xảy ra
trước khi nhà Tùy chinh phục phương Bắc (581). Phần luận
sôi động về những biến cố nầy trong cái nhìn của riêng
Trí Khải, đọc Sato, Tendai daishi no kenkyu, pp. 42-43, và Kyoda,
Tendai daishi no shogai, pp. 113-120.
446
Ðoạn văn nầy không phải trong ‘Shih chi’ nhưng trong ‘Tso
chuan’ (niên sử thứ 22 nhà Chu), ghi rằng: ‘Trước khi Bình
Vương (770-720) dời kinh đô về hướng đông (Lạc Dương),
Hsin-Yu đến sông Vị (ở Hồ Nam) và thấy một vài người
râu tóc tu khổ hạnh trên một khoảng đất trống. Hsin-Yu
nói: ‘Một trăm năm sau, tôi e rằng quốc gia nầy sẽ bị
giống người hung hãn ở phương tây chiếm đóng. Các nghi
lễ sẽ không còn ở đây’. Sau đó, vào mùa thu năm 686 trước
Tây lịch, tức chưa đầy một trăm năm sau, các hoàng tử
nước Tấn và Tần đưa người thiểu số ở Lu Huan qua sông
Vị}. Ðọc Legge, The Chinese Classics, 5.181-182.
Chan-jan
(T46.210c4-6) nói: {Người lõa thể với râu tóc tượng trưng
cho những người thầy thuyết giảng sai lệch pháp Phật. Chánh
giáo phải được sánh với người tương xứng. Quăng bỏ
giới luật giống như ‘bỏ qua lễ nghi’. Ðối tượng của
ái dục giống như người Khuyển Nhung hung hãn ở phương tây,
và sự rụng tàn của chánh quán ví với sự xâm nhập trung
ương. Chánh nhân (tức đạo) không hoàn toàn mất đi, tương
tự như ‘sợi chỉ’}.
447
Từ ‘Chin shu’ (bản Po-na) 49:1a-b. Người nầy là một trong
‘bảy hiền nhân ở rừng trúc’ là những người nổi tiếng
tự cho mình là Lão Giáo cấp tiến thời tam quốc là những
người uống rượu và hành xử lạ lùng như một hình thức
phản kháng xã hội và tự do cá nhân. Ðọc Holtzman, Poetry
and Politics: The Life and Works of Juan Chi (AD 210-263).
448
Chan-jan (T46. 210c25-211a3) giải thích rằng Trí Khải quy lỗi
đưa đến việc mất miền Bắc Trung Hoa vào cuối đời Tây
Tấn (AD 311-316) vì sự lơ đễnh quân sự và văn hóa đưa
đến bởi những hình ảnh thao túng của Juan Chi và Thất Hiền.
449
Cuộc thảm sát Phật giáo ở phương Bắc khởi đầu với
Vũ Ðế thời Bắc Chu năm 574.
450
Nhà tu đồi trụy tên Vệ Nguyên Tung (Wei Yuan-sung) trở nên
quen thuộc như một trong hai khuôn mặt chính có trách nhiệm
trong việc bạo động đưa đến sự tiêu diệt Phật giáo
và (Lão giáo) của Vũ Ðế vào năm 574. Khuôn mặt thứ hai
(đã được Trạm Nhiên đề cập T46.211a 19-23) là đạo sĩ
Trương Tân (Chang-Pin). Ðọc Ch’en, Buddhism in China, pp.184-194,
những sơ lược về biến cố quanh cuộc đàn áp thời Bắc
Chu.
451
Chan-jan (T46.211b21-25) toát yếu: {Vệ Nguyên Tung có thể xem
như một người dạy tà pháp, trong khi đó thì Vũ Ðế là
một người cuồng tín và ngu xuẩn. Bản văn từ câu ‘Tại
sao không?’ cho thấy lòng tin mù lòa. Với những người tu
tập tam muội cũng nên tự xét. Thứ nhất, bên trong thiếu
trí tuệ và hiểu biết; thứ hai, bên ngoài ông ấy hoặc bà
ấy đặt trọn lòng tin [mù quáng] vào người thầy của mình;
thứ ba tôn sùng và bắt chước cách hành xử của thầy. Vì
vậy, hành giả phải biết rằng: trước hết phải tự huấn
luyện chính mình trong chánh pháp, sau đó mới tin vào thầy.
Nếu không thì sẽ tự chôn vùi trong nẻo tà, và tự cho rằng
đó là chánh đạo}.
452
Trang Tử, 38/14/42-44; đọc Watson, The Basic Writings of Chuang-Tzu,
pp. 160-161. Theo Chan-jan (T46.211c25-212a7), người đàn bà đẹp
tên Hsi-shih tượng trưng cho người căn cơ sắc bén, có thể
thực hành pháp quán ngay giữa tà pháp một cách đúng lúc
và có hiệu quả. Những người đàn bà xấu xí kia tượng
trưng cho những người tu tập sai lầm. Những người nghèo
tránh xa tượng trưng cho hành giả Tiểu Thừa. Người giàu
đóng kín cổng tượng trưng cho tín đồ Ðại Thừa. Cá tượng
trưng cho những người tu tập pháp lành thuộc thế tục; chim
tượng trưng cho pháp định thuộc thế gian. Tất cả bốn
hạng người đều xa lìa sự trụy lạc nầy; cũng như kẻ
hèn, người sang, loài cá, giống chim đều tránh xa dung mạo
xấu xí.
453
Chan-jan (T46.212a 9-10) nói: {Ðiên cuồng vì vọng dục, chúng
đuổi theo sấm chớp của lòng tham đắm}.
454
Một loại thuốc đắng của y thuật Trung Hoa làm từ chất
phế thải trong thân người, được nói là trị được sốt
và các chứng bệnh hiểm nghèo khác.
455
Từ kinh Tạp A Hàm (Samyuktagama, T2.234a-b). Tỷ dụ phân biệt
bốn loại ngựa được huấn luyện, sánh với bốn loại căn
cơ của hành giả: giống ngựa tốt nhất sẽ làm theo ý người
cỡi ngựa dù chỉ nhìn thấy bóng roi. Những loại ngựa khác
có khi phải ghì lông hoặc da, hoặc cắt vào tận xương thì
mớí biết ý chủ. Người tu tập pháp tốt nhất là người
chỉ cần nghe và thấy những nỗi khổ chung quanh [mình và
người] thì sẽ sinh lòng chán lìa thế gian.Về văn bản tiếng
Pali trong Tăng Chi Bộ Kinh, đọc Woodward and Hare, Book of Gradual
Sayings, 2.118-120.
456
Từ kinh Niết Bàn, T12.617-618c. Kinh phân biệt giữa cái nhìn
giả tạm về hiện hữu là thường, lạc, ngã và tịnh, và
cũng bốn tánh nầy nhưng được hiểu theo học thuyết thâm
sâu của Ðại Thừa. Những ai là người nhìn bốn tánh đức
với cái nhìn thế tục thì chẳng khác gì ông thầy thuốc
chỉ biết dùng duy nhất một chất sữa để chữa tất cả
căn bệnh. Một vị thầy thuốc giỏi đến cung vua, và bảo
với vua rằng sữa kia là chất độc, hãy đuổi người cho
thuốc kia đi, và đưa ra từng loại thuốc trị từng chứng
bệnh khác nhau trong vương quốc. Sau cùng, nhà vua lâm bệnh,
và vị thuốc mà vị thầy thuốc nầy mang đến trước sự
kinh ngạc của nhà vua, lại là vị sữa. Người thầy thuốc
thứ hai có thể làm như vậy vì, khác với người trước,
ông có thể biết được bệnh nhân, và đưa ra phương thuốc
thích hợp. Ðược dùng bởi một người cẩu thả, sữa trở
thành chất độc, vì gây hại hơn là chữa lành bệnh. Ðược
phân định bởi một lương y, sữa trở thành thuốc quý. Kinh
ví người cho thuốc cẩu thả kia như loài sâu vẽ thành chữ
trên phiến cây khô}.
457
Từ kinh Tăng Nhất A Hàm, T2.794c, 795a. Có một phẩm khác chút
ít thấy trong Tạp A Hàm, T2.342c-343b. Về bản phiên dịch Anh
ngữ từ bản Pali, đọc Woodward, The Book of the Gradual Sayings,
5.224-227; và Horner, The Collection of the Middle Length Sayings, 1.271-277.
458
Trái nghịch với thiện tri thức là người giúp kẻ khác trên
đường đạo.
459
T14.541a. Ngài Phú Lâu Na (Purna Maitrayaniputra) kể lại có lần
Ngài Duy Ma Cật (Vimalakirti) đã phê bình khi thấy ngài nói
pháp cho các tỳ khiêu mới học mà không nhập định để
biết được tâm tư của họ đối với giáo pháp.
460
Theo Tứ Phần Luật (Dharmagupta Vinaya, T22.567c) một tăng sĩ
phạm giới bị trục xuất như biển cả không nhận xác chết.
Luật trục xuất nầy dưới ba hình thức: tạm thời, giữ
im lặng, và vĩnh viễn.
461
Kinh Niết Bàn, T12.620c, Phật ví sự trục xuất một tu sĩ
hư hỏng ra khỏi tăng đoàn cũng như người chủ nhà giàu
có kia nhổ một giống cây độc trong khu vườn nhà.
462
Tam độc tham, sân, si là những phiền não căn bản.
463
Si là cái độc thứ ba trong tam độc, chúng ta có thể nói
một cách chắc chắn rằng [người theo lối sống] phóng đãng
cũng không thể tự nhận là đạo.
464
Từ Lão Tử, phẩm 4: ‘[Ðạo] tự làm dịu sức thần quang
và hòa đồng vào thế tục’. Trong Tùy-Tự-Ý tam muội, hành
giả trà trộn với thế tục thay vì tự giới hạn trong tịnh
thất hoặc trong nghi lễ}.
465
Chan-jan (T46.213a7-8) nói: {Người ấy phải đưa ra những giáo
pháp thuộc Luật tạng để dung hòa [những cực đoan].
466
Chan-jan (T46.213a9-11) nói: {Phân đọan câu hỏi : ‘Nước’
tượng trưng cho chánh quán, ‘ngọc trai’ tượng trưng cho
thể tánh của lý, và ‘gió’ tượng trưng cho những lối
tu tập khác nhau. Khi gió mạnh thì sóng tràn [trên mặt nước].
Vì những nghi thức thuộc sự tướng khiến [chánh] quán vấy
bùn lầy, cái dụng của bốn tam muội là gì?}
467
Chan-jan (T46.213a15-16) nói: {Lối thực tập của riêng từng
người đã là như vậy thì hẳn rằng cũng được dùng để
dạy người. Trong đường lối tu tập của mỗi người khác
nhau, tùy thuộc người ấy là sơ cơ hoặc là rốt ráo. Phải
biết được căn cơ của người, là cái riêng biệt}.
468
Chan-jan (T46.213a16-17) nói: {Ngay cả khi chúng ta đưa ra với
một phương pháp hữu hiệu duy nhất cho người tu tập, thì
cũng là sự lỗi lầm đã dạy một phương pháp cho tất cả
mọi người}.
469
Chan-jan (T46.213a22) ghi nhận đây là ‘thế giới tất đàn’.
470
Theo Chan-jan (T46.213a22) đây là ‘vị nhân tất đàn’.
471
Chan-jan (T46.213a23) ghi nhận đây là ‘đối trị tất đàn’.
472
Chan-jan (T46.213a23) ghi nhận đây là ‘cứu cánh tất đàn’.
473
Thực sự, hai tam muội đầu tiên trong bốn tam muội đã được
nói rõ, còn lại hai tam muội, không phải ba [tam muội].
474
Chữ ‘căn’ (ken) trong Hoa ngữ được dùng trong hai lối diễn
đạt rất khác nhau- indriya hoặc ‘căn’ (như sáu căn), và
mula hoặc ‘gốc’ (như gốc thiện nghiệp). Cả hai nghĩa
đều được đưa ra ở đây, vì gốc thiện nghiệp có thể
hiển lộ dưới hình tướng căn tánh sắc bén trên đường
đạo. Ðại Trí Ðộ Luận dùng chữ che đặc biệt với nghĩa
‘ngăn chận’ từ những ràng buộc hoặc phiền não. Maha
Chỉ Quán thường thấy cặp chữ che-chang, có nghĩa là trở
ngại hoặc làm chướng đạo do những ác nghiệp trong quá
khứ. (Ðọc T46.91a-b).
475
Ðại Trí Ðộ Luận, T25.239a. Bản văn mô tả chi tiết Phật
lực biết được căn tánh chúng sinh. Ðại Trí Ðộ Luận
đưa ra những thí dụ ba hạng đầu tiên, không có hạng thứ
tư: ngài Xá Lợi Phất (Sariputra) và Mục Kiền Liên (Maudgalyayana}
tiêu biểu cho hạng thứ nhất, ngài Ương quật ma la (Angulimaliya)
tức kẻ giết người, tiêu biểu cho hạng thứ hai, và Bàn
Ðặc (Cudapanthaka) người học trò nổi tiếng vì chậm hiểu,
tiêu biểu cho hạng thứ ba. Chan-jan (T46.213b8-9) ghi nhận hạng
thứ tư là phàm phu (prthagjana).
476
Chan-jan (T46.213b11-13) giải thích: {Ngay giây phút nghe được
tam diệu đế đầu tiên, ngài liền chứng được sơ quả..
Khi thấy người bỏ gánh nặng trên người xuống, ngài liền
chứng quả A la hán. Trong chúng hội Pháp Hoa, ngài là người
được Phật thọ ký trước nhất}.
477
Tu tập Chỉ Quán và thiện hạnh.
478
Vua A Xà Thế phạm trọng tội giết cha, là vị vua nhân từ
tên Tần Bà Sa La, cũng như thông đồng với người môn đồ
xấu ác của Phật là Ðề Bà Ðạt Ða để tranh đoạt quyền
hạn. Theo Chan-jan (T46.213b17-26), trong những đoạn kinh Niết
Bàn (T12.717-728), căn nghiệp của vua A Xà Thế bắt đầu hiển
lộ dưới hình thức xấu xa, và những chướng đạo trổ
thành mụn nhọt khắp thân thể. Cuối cùng khi vua đến trước
Phật và tỏ lòng sám hối, chứng ngộ và đắc quả vị thập
tín, những ung nhọt liền lành.
Với
Ương quật ma la, đọc ghi chú 379 . Theo Chan-jan (T46.213.b27)
ngài chứng được vô-sinh-pháp-nhẫn.
479
Ðại Trí Ðộ Luận, T25.268a, và Căn Bản Thuyết Nhất Thiết
Hữu Bộ (Mulasarvastivadin Vinaya, T23.796b). Không kể đến sự
ám muội của ông, chỉ học một dòng kệ có thể giúp ông
chứng ngộ được pháp vi diệu.
480
T12.641b. Maha Chỉ Quán đổi ngược thứ tự của hai câu trong
kinh. Ở đây Phật giảng dạy cho ngài Ca Diếp rằng một vị
Bồ Tát trên đường hoằng pháp vi phạm giới luật, và sám
hối những việc mình làm, thì không vì thế mà bị ô nhiễm.
481
Ðọc Chan-jan (T46.214a28-b2) đặc biệt ghi chú: những người
y theo pháp [Ðại Thừa] cũng như những người y theo giới
luật, cả hai đều có căn tánh sắc bén để lãnh hội được
[Phật] pháp không bị chướng ngại; những người y theo pháp
nhưng buông thả giới cấm sẽ có căn tánh sắc bén nhưng
lại bị nghiệp chướng; những người buông xuôi pháp nhưng
y theo giới cấm sẽ có căn tánh trì trên nhưng không bị nghiệp
chướng; và những người phóng túng cả hai pháp và giới
luật sẽ là người trì độn và nhiều nghiệp chướng.
482
Từ ‘Tạp A Tỳ Ðàm Tâm Luận’(T’sa A-p’i-tan hsin lun,
T28.949c). Ðề Bà Ðạt Ða, không kể ác nghiệp của ông, tụng
đọc kinh Phật, kết quả sẽ chứng quả giác ngộ (là một
Bích Chi Phật) sau khi nghiệp chướng đã trả xong trong địa
ngục.
Uất
Ðầu Lam Phất, là một trong những ông thầy đã dạy thái
tử Tất Ðạt Ða pháp tu khổ hạnh, vẫn còn tu tập pháp
thiền của thế tục (tức Tam Ma Ðịa cao nhất). Lối tu tập
nầy giúp ông tái sinh các cõi trời, nhưng vì sinh tâm giận
dữ khi bị người quấy rối trong lúc tọa thiền, nên sau
đó bị đọa vào các cõi thấp kém. Ðại Trí Ðộ Luận (T25.189a)
ghi lại chi tiết những việc nầy, và dùng làm thí dụ cho
các lối nhìn sai lệch của những người đưa ra sự phân
chia giữa loạn và định, và trở nên tự trói buộc vào cái
định [như họ tưởng lầm].
483
Từ Ðại Trí Ðộ Luận, T25.161b. Một người Bà la môn say
đến gặp Phật và xin được xuất gia. Phật dạy ngài A Nan
cạo tóc và mang áo cho ông.. Khi vị tăng nầy tỉnh rượu,
vị nầy lo sợ về hành động của mình, rời tăng đoàn và
vội vàng bỏ đi.. Hẳn nhiên các vị tu sĩ khác bối rối
không rõ lý do gì Phật lại cho phép người nầy gia nhập
tăng đoàn ngay, nhưng Ðức Thích Ca giải thích rằng vô lượng
kiếp trong quá khứ người kia chưa từng vui thích vào đường
đạo. Ngày nay, cơn say đã đưa đường ông, và bắt đầu
tiến về chỗ nên đến. Sau nhiều kiếp tái sinh, người nầy
sẽ đạt đạo giải thoát. Chan-jan (T46.214b16-17) ghi lại những
điểm chính của câu chuyện, và nói rằng: {Một người tu
phạm giới vẫn hơn một người phàm giữ giới, vì [chỉ]
giữ giới cấm của thế gian không đưa đến giải thoát}.
484
Ðại Trí Ðộ Luận, T25.161a-b. Phật tuyên thuyết ở đây
rằng: {Mặc dù họ đã phạm giới và sa vào tội lỗi , những
người đã vì pháp Phật mà bỏ đời sống thế tục, sau
khi nghiệp báo đã cạn khô, sẽ chứng đắc giải thoát.}
Ðây là một thí dụ điển hình của một tỳ khiêu ni tên
là Liên Hoa Sắc{Utpalavarna). Trước đó bà là một kịch sĩ,
một ngày kia bà lấy áo tràng của nhà tu mặc vào người
chỉ để vui chơi. Kết quả về sau bà trở thành một tỳ
khiêu ni. Vì chưa được thanh tịnh, bà dùng sắc đẹp và
phạm giới, khiến sa vào địa ngục. Cuối cùng, khi đã mãn
nghiệp báo, bà tái sinh và được gặp Phật Thích Ca Mâu Ni,
lại trở thành một tỳ khiêu ni, chứng lục thông và đắc
quả A la hán.