|
|
||||||||||||||||||||
|
|||||||||||||||||||||
NGHIÊN CỨU VÀ PHIÊN DỊCH ĐẠI PHẨM THỨ NHẤT
PHẦN HAI Mục Lục | Bài Tựa | Tiểu Phẩm I | Tiểu Phẩm II | Tham Khảo
Tiểu Phẩm III | Tiểu Phẩm IV | Tiểu Phẩm V | Thiên Thai Trí Giả ___________________________________________________Tiểu Phẩm I
{4a18} Có ba mục trong phẩm {Phát đại tâm }: Thứ nhất, [ý nghĩa của] chữ {Bodhicitta} qua nhiều ngôn ngữ khác nhau; kế tiếp là loại bỏ những nghĩa sai lạc; và sau cùng là diễn bày sự [phát tâm] chân chánh. {Bodhicitta} trong Phạn ngữ và Hoa ngữ {4a19} {Bodhi} là văn tự Ấn Ðộ, Hoa ngữ dịch là {Ðạo}(1). {Citta} là văn tự Ấn Ðộ, Hoa ngữ dịch là {Tâm}, đó là cái tâm của sự phản ảnh nhận thức. Nhưng chữ hsin (tâm) của chúng ta còn có một ý nghĩa khác (2)- tịnh tánh của uẩn hoặc tim của cây- là nghĩa giống chữ {hrdaya} của Ấn Ðộ (3). Loạibỏ những sai lầm {4a23} Giờ đây, trong việc loại bỏ những giải thích sai lạc, chúng ta để ra ngoài lối hiểu hsin như tánh của uẩn hoặc trái tim của cây, và chỉ nói thuần về hsin là tâm như sự phản ảnh của nhận biết. [Chữ] tao (đạo) hoặc {con đường} cũng có cái dụng phổ quát và biệt thù, là cái chúng ta đang đi đến chỗ loại bỏ trên căn bản mười [đề mục tổng quát]. (4) Luận về biệt dụng của [danh từ] Bồ Ðề Tâm {4a25}(1) Giả định rằng trong mỗi niệm tâm chúng sinh chứa đầy mê đắm, giận dữ, và mông muội (5). Mặc dù cố gắng quản thúc cho kỳ được [những phiền toái nầy], nhưng chúng vẫn không bị chế ngự, và mặc dù cố công nhổ bỏ, chúng vẫn không rời lìa (6). Thay vào đó, những phiền não nầy tăng trưởng lớn rộng theo ngày tháng đến đổi chúng sinh nhúng tay vào mười điều ác ở một mức độ trầm trọng (7), giống như năm hoạn quan (8). Chỗ nầy tương tự như phát khởi tâm ý của loài chúng sinh ở địa ngục và bước vào con đường lửa dữ (9). {4a27}(2) Nếu tâm chúng sinh trong mỗi khoảnh khắc mong cầu những sở hữu của mình ngày thêm lớn rộng, như biển kia uống trọn nước của tất cả những dòng sông, hoặc như lửa lớn nuốt trọn đốm cháy, và như vậy, nếu một người phạm vào mười điều ác ở mức độ trung bình, giống như Ðề Bà Ðạt Ða là người đã mê hoặc một số đông 500 tỳ khiêu đi theo chủ trương ly gián của ông ta (10), rồi thì sự phát khởi tâm ý nầy đến chỗ của súc sanh và đi về con đường của máu. {4b1}(3)
Giả định rằng tâm chúng sinh luôn mong cầu vang danh bốn
phương (11) và tám hướng, muốn được ngưỡng mộ và tán
tụng. Mặc dù tự mình không có đức hạnh, nhưng muốn sánh
cùng thánh hiền, phát sinh mười điều ác ở mức độ thấp,
rất giống như Makandika (12). Sự sinh tâm như vậy đến với
ngạ quỷ và đi theo con đường của gươm đao.
Luận tổng quát về tâm Bồ Ðề {4b19}
Hoặc nói về tâm (citta), hoặc nói về Bồ Ðề (bodhi), vô
số nghĩa sai lầm (đã loại bỏ). Ðể giản lược, chúng
ta chỉ kể ra mười. Một [nghĩa] có thể phức tạp ở thứ
bậc cao, và súc tích ở thứ bậc thấp, hoặc phức tạp ở
thứ bậc thấp, và súc tích ở thứ bậc cao hơn- con số mười
chỉ được dùng một cách thuận tiện mà thôi (24).
Khai thị chân [phát tâm Bồ Ðề] {5b13} Khai thị chân phát tâm Bồ Ðề gồm có ba đề mục: thứ nhất là tứ đế, kế đến là tứ hoằng thệ nguyện, và sau cùng là lục tức. Tứ Ðế {5b14}
Tên gọi và đặc tính của giáo lý Tứ Ðế lấy từ phẩm
{Thánh Hạnh} trong kinh Ðại Niết Bàn (87). Bốn thứ bậc [diễn
giải] gồm có: sinh và diệt, vô sinh diệt, vô lượng, và
vô tác (88).
Mười
duyên cớ phát tâm Bồ Ðề
{6a7}
Kinh tạng nói rõ về nhiều trường hợp phát tâm Bồ Ðề
khác nhau: (1) Tư duy về lý mà phát tâm, (2) Do thấy tướng
hảo của Phật mà phát tâm, (3) Do thấy được thần thông
của Phật mà phát tâm, (4) Do nghe được pháp mà phát tâm,
(5) Do đi qua nhiều cõi nước mà phát tâm, (6) Do quán sát chúng
sinh hữu tình mà phát tâm, (7) Do thấy các phương pháp hành
trì mà phát tâm, (8) Do chứng nghiệm tánh hoại diệt của
các pháp mà pháp tâm (126), (9) Do thấy sự thối thất của
chúng sinh mà phát tâm, và (10) Do thấy chúng sinh khổ mà phát
tâm. Ðã đề cập tổng quát về mười [trường hợp phát
tâm căn bản], chúng ta sẽ đi sâu vào chi tiết (127).
Tứ hoằng thệ nguyện (210) {8a7}
Ở đây chúng ta diễn bày chân phát tâm trong tương quan với
bốn lời nguyện. [Sự phát tâm Bồ Ðề chân chánh] đã được
nói rõ ràng qua những đề mục trước nói về [nguyên lý]
pháp tánh, nghe pháp v.v... Ðể những người chưa hiểu rõ
được lợi ích, chúng ta sẽ nói lại ở đây thêm một lần
nữa, nhưng lần nầy sẽ nhấn mạnh vào tứ hoằng thệ nguyện.
Lục Tức (340) {10b7}
Vấn: {Khi hiển lộ chân phát tâm qua lục tức, cái ‘chân’
nầy có khi hành giả vừa phát tâm [Bồ Ðề], hay là cái ‘chân’
nầy chỉ đến vào giai đoạn [tu tập] sau?}(341)
Tham khảo 1 P’u-t’i được dịch từ chữ Bodhi (Bồ Ðề) của người Ấn, trong khi người Trung Hoa dịch là Tao (Ðạo). Chữ Ðạo là lối dịch chữ Bồ Ðề của Phật-Lão giáo, vào thời Trí Khải dần dần được phiên dịch mới mẻ và chính xác chữ Giác (chueh).2 Dù rằng ý nghĩa trong Phạn văn và Anh văn hoàn toàn khác nhau, chữ citta (trí) và hrdaya (tâm) đều được dịch là hsin (tâm) trong Hoa văn. 3 Trí Khải cho chúng ta hai lối viết chữ hrdaya, chỉ khác trong ba mẫu tự đầu cấu kết thành chữ. 4 Vốn cẩn thận khi chuyên chú về ý nghĩa chân chính của chữ citta, trong các lần nói đến phát tâm Bồ Ðề hoặc tao hsin (đạo tâm), Trí Khải chọn từ chữ Tao của Hoa văn. Mười {con đường} hoặc {đạo} mà Trí Khải nói đến qua các đoạn văn theo sau thì không chỉ cho Ðạo như một {thánh phẩm hoặc thực tại tối thượng}(như Bồ Ðề), nhưng là những đoạn đường chông gai hoặc cõi tái sinh, từ chữ gati (luân hồi) hơn là chữ bodhi (Bồ đề) trong Phạn văn. Như vậy, Trí Khải đã loại bỏ những lối đi (đạo) sai lạc, thiểu [trí], và những tìm cầu trái nghịch, với mục đích làm sáng tỏ chân {đạo} khi con người tìm đạo Bồ Ðề, tức giác ngộ của một vị Phật. Sáu lối đầu tiên trong số mười con đường sai lạc thì cũng không khác với sáu cõi luân hồi từ địa ngục cho đến ngạ quỷ. 5 Tam độc-tham, sân, và si trong Phạn văn- ngoại trừ qua lối chuyển ngữ của Trung Hoa, chữ dvesa (thù ghét) trở thành {sân hận}. 6 Chan-jan (Trạm Nhiên) (T46.160c25-26) ghi chú: [Câu]{Cố gắng làm chủ được chúng nhưng chúng không chịu đứng yên} có nghĩa rằng hành giả áp dụng Chỉ nhưng không thể an định hoặc khiến chúng dừng lại. {Cố gắng bứng tận gốc chúng, nhưng chúng không bật rễ} có nghĩa rằng hành giả dùng Quán nhưng không thể phá vỡ hoặc bôi xóa được chúng. 7 Mười hành vi ác là: sát sinh, thâu đạo (trộm cắp), tà dâm, vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ (nói lời bẩn thiểu), tham dục, sân khuể (nóng giận, theo Phạn văn), và tà kiến. Theo Ðại Trí Ðộ Luận (T25.663a), [mười hành vi nầy] có thể tác dụng ở ba mức độ: nặng nề thì [quả báo] tương ứng cõi địa ngục; không nặng không nhẹ thì tương ứng cõi súc sanh; và nhẹ thì tương ứng cõi ngạ quỷ. 8 Câu chuyện của năm hoạn quan được ghi lại trong kinh Maha-maya (T17.583c). Những người nầy trước kia là năm vị tỳ khiêu, trong một nạn đói làm ra vẻ người hiền, giả dạng tọa thiền, nhưng thật sự trong tâm chứa đầy tà ý. Dù rằng họ thành công trong mưu đồ tạo dựng được một lối sống thoải mái [về vật chất] cho chính bản thân họ, nhưng phải chịu quả báo đọa địa ngục trong nhiều kiếp. Sau đó họ lại tái sinh vào những cõi thấp kém, và cuối cùng được thọ sinh làm người- bốn người sinh làm hoạn quan khiêng kiệu trong một vương quốc, một người sinh làm kẻ chùi dọn phòng vệ sinh. Tất cả những người nầy vẫn giữ lòng chống báng Phật pháp, cho đến khi được Phật khai tâm. 9 Con đường hoặc cõi lửa, lối máu, đường gươm tương ưng với ba nẻo thấp nhất trong sáu cõi luân hồi- tức địa ngục, súc sanh, và ngạ quỷ. 10 Từ kinh Niết Bàn, T12.812a, Ðề Bà Ðạt Ða đã cố công thuyết phục Phật để ông ấy cai quản tăng đoàn, dù không được như ý muốn, nhưng ông vẫn tự động làm việc ấy mà không xin phép Phật, vì vậy phạm vào tội {phá hoại tăng đoàn} là một trong năm trọng tội mà ông đều đã phạm phải. 11 Theo Chan-jan (Trạm Nhiên) (T46.161c22-26) là tên gọi chung cho các phương xa ở Bắc, Nam, Ðông, và Tây. 12 Từ Ðại Trí Ðộ Luận, T25.63c-64a, 82b, Makandika được nhắc đến như một người lập ra một tín điều rằng nếu ai chỉ thấy được thân của vị lãnh tụ giáo phái nầy thì chắc chắn sẽ chứng đắc tịnh đạo. Ðức Phật bác bỏ lối giảng dạy nầy, và nói rằng đạo không phải là cái có thể chứng ngộ được chỉ bằng vọng kiến, truyền thống, kiến thức, hoặc quy chế luân lý, mà cũng chẳng phải là không cần đến những thứ nầy, nhưng thực sự từ sự thoát ly những trói buộc. Makandika tranh cãi lại rằng có thể đạt được bằng không lời. Ðại Trí Ðộ Luận dẩn chứng những bài kệ về lối thấy trái đạo của Makandika và sự bài bác của Phật trong Atharvargita (T4.180), phần tiêng Pali có thể tìm đọc trong Magandiya-sutta of the Suttanipata. 13 Năm đức hạnh của đạo Khổng, mặc dù Chan-jan (Trạm Nhiên) (T46.162a23) luận về {sự phô trương} với tham cứu đặc biệt chương 38, tập Lão Tử. 14 Trong đó, mười thiện nghiệp được tu tập ở mức độ thấp hơn. 15 Ðó là ba cõi địa ngục, súc sanh, và ngạ quỷ. 16 Chan-jan (T46.162b12-13) nói về con đường nầy: {Hành giả [ít nhất] phải có được tam muội đẳng trì trước khi có thể thọ sinh nơi cảnh giới nầy.} Ðiều nầy để nói rằng dừng lại tâm loạn động là căn bản của thiền định, là điều cần thiết để tái sinh nơi các cõi trời Sắc và Vô Sắc cũng như trong những từng trời thuộc cõi Dục. 17 Ðầu tiên, ý nầy chỉ cho một trong sáu môn phái phi Phật giáo vào thời Ðức Thích Ca Mâu Ni, tên gọi là Jains. Theo Chan-jan (T46.162b14-15), ở đây được dùng trong một nghĩa rộng hơn để chỉ bất cứ môn phái phi Phật giáo nào khác. 18 Phần nầy trong bản văn có thể bị đứt đoạn. {Lục dục} là bảng liệt kê những tham đắm trói buộc vụn vặt vào tướng của thế gian như màu sắc, tướng trạng, dáng vẻ quyến rũ, giọng nói êm dịu, làn da mịn màng, nét mặt đẹp đẽ của nam nữ. Chín pháp thiền về tử thi nát rữa sẽ [giúp hành giả] vượt qua những ràng buộc nầy. Ðọc Ðại Trí Ðộ Luận, T25.217a-218c. Ðọc tác phẩm ‘Thứ Ðệ Thiền Môn’ (Tz’u-ti ch’an-men), T46.535c-537b. 19 Ðại Trí Ðộ Luận ( T25.120c) phân biệt những an lạc đến từ bên ngoài và bên trong. [An lạc từ bên trong] được diễn tả bởi Niết Bàn thường lạc, giống như nước không ngừng tuôn chảy từ suối đá khô, không phải từ những vật liệu bên ngoài. Sự tương tự của [an lạc từ bên trong] cũng được nói rộng ra đến thiền lạc. Với tam thiền, yếu tố an lạc có đặc tính của ba lớp đầu trong bốn lớp thiền, nhưng đến lớp thứ tư thì thay vào sự thuần tịnh. 20 Ðó là, tâm thực hành tứ Phạm trụ (brahma-viharas) của Phạm thiên: Từ, Bi, Hỷ, và Xả. 21 Những [cõi] nầy, với cõi Dục, tạo thành ba cõi. Theo truyền thống, cõi Phạm thiên thuộc sơ thiền trong tứ thiền cõi Sắc. Lại chia làm ba đẳng vị Phạm thiên. Tuy nhiên, danh từ nầy thường dùng để chỉ chung các cõi trời Sắc giới. Ở đây, dường như Trí Khải muốn nới rộng ý nghĩa của danh từ sang đến cõi Vô Sắc. 22 Chỗ nầy chỉ cho bộ ba đã được đề cập là giới, định, và tuệ. 23 Nhị Thừa của Thanh Văn và Duyên Giác có đặc tính tìm cầu giải thoát bằng cách diệt trừ những ô nhiễm hữu lậu (asrava) trói buộc con người trong vòng luân hồi. Chan-jan ( T46.162c5-29) ghi chú rằng chỗ nầy vẫn còn thô thiển (và sai lầm) vì không có ý giải thoát người khác. 24 Chan-jan (T46.162c2-5) giải thích: {‘Cao hơn’ chỉ cho Nhị Thừa, ‘thấp hơn’ chỉ cho A tu la (asura). Vì bản văn nói giản lược về Nhị Thừa, và nhấn mạnh vào cõi thấp hơn. Ðiều nầy cho thấy rằng nói đến cõi A tu la để phân biệt với các cõi ngạ quỷ và súc sanh. Kinh Pháp Hoa nói đến sáu cõi; kinh Duy Ma Cật nói về năm đường, tùy theo cách phân biệt cõi A tu la hoặc chung hoặc riêng [với các cõi khác]. 25 Chan-jan (T46.162c9-11) nói: {theo ‘khuynh hướng chủ động’ không có nghĩa rằng những [khuynh hướng] tâm linh khác không có mặt. Vào giây phút cận kề cái chết, quả báo [sẽ ứng hiện vào kiếp tương lai] đặc biệt có ảnh hưởng từ chiều hướng [tâm linh] chủ động [vào khoảnh khắc nầy]. Như vậy, [chúng ta nói đến] sự phát khởi một tâm thức đặc biệt không có nghĩa rằng chín cái kia hoàn toàn vắng bặt. Vì trong mười chúng ta [thường] nghiêng về một [như chủ yếu], bản văn nói: ‘một bậc’}. 26 Ðại Trí Ðộ Luận, T25.219a. Câu thứ ba không có trong Ðại Trí Ðộ Luận, và thấy rõ rằng Trí Khải đã thêm vào để phù hợp khi nói về ba cõi thấp nhất. Ðoạn văn trong Ðại Trí Ðộ Luận nói rộng về tinh thần trong lúc gần cái chết, và sự tác động vào kiếp vị lai. 27 Ẩn dụ nầy rất có thể lấy từ một bản kinh, nhưng không thấy có ghi lại nguồn gốc. Ðọc Makashikan inyo tenkyo soran (1), p.75. 28 Từ kinh Niết Bàn, T12.660b. Trong kinh văn đặc biệt ví người đoạn thiện căn (xiển đề) với loài tằm [cuộn mình trong kén]. 29 Theo Chan-jan,T46.163a. 30 Vì các vị tu theo Tiểu Thừa không độ tha nên chỉ cầu giải thoát cho riêng mình. 31 Chín con đường đầu tiên hợp với từng cặp thứ nhất nầy, đường thứ mười (Tiểu Thừa) hợp với cặp thứ hai. Mặc dù Tiểu Thừa đã được vô nhiễm, vô lậu, thiện, tịnh, giải thoát, và chân lý nhưng vẫn chưa toàn hảo và còn thiên lệch, vì vậy nên gọi là {sai lạc} sánh với {chân} đạo của Ðại Thừa. 32 Duhkha, đế thứ nhất trong tứ đế. Chan-jan nói rõ rằng vì những danh từ trên được đưa ra theo từng cặp đối chiếu, Maha Chỉ Quán trình bày sự giải thích phiến diện của chúng. Những giải thích nầy qua tứ đế có thể được diễn đạt trong một lối so sánh. Chan-jan, T46.5a2-4, nói đến hai cặp đầu tiên: Khổ và Tập đế cả hai đều liên quan đến {ô nhiễm} và {hữu lậu}. Dù rằng Khổ được giải thích trước tiên, nhưng nếu hành giả so sánh với những đế kia, thì bản văn sẽ được đọc là: {Ô nhiễm và hữu lậu biểu trưng cho Khổ đế; vô nhiễm và vô lậu biểu trưng cho Diệt đế.} 33 Theo Chan-jan, T46.163a5-6. {Hóa thành} chỉ cho một ẩn dụ nổi tiếng trong kinh Pháp Hoa (T9.26a; Hurvitz, p.148-155) trong đó giáo pháp phương tiện (Tiểu Thừa) của Phật thì như một cái thành do người đưa đường vì những kẻ tìm kiếm kho tàng mỏi mệt kia mà hóa hiện ra để nghỉ ngơi trên đường đi đến mục tiêu (kho báu). Khi những người ấy đã hồi phục, người đưa đường liền khiến hóa thành biến mất. 34 Ðó là, những người tu theo Tiểu Thừa tranh luận để chinh phục lòng tham. Chan-jan, T46.163a8-9, ghi chú: {Nếu được giải thích theo lối đối chiếu, [bản văn] cũng có thể nói rằng: ‘Ô nhiễm và vô nhiễm là Ðạo đế’. 35 Tám đạo, thứ tư của tứ đế. Chan-jan (T46.163a 8-9) nói: {Nếu hành giả chỉ nhìn [theo tứ đế], có thể đọc đơn giản là: ‘thiện’ và ‘tịnh’. Nhưng vì Diệt [đế] sánh với Tập [đế] nên được nói theo cặp.} 36 Chan-jan ( T46.163a 10-11) nói: {[Cặp đối chiếu] trói buộc và giải thoát v.v... có thể được hiểu như trên}. 37 Tam nghiệp gồm có thân, khẩu, và ý. Bốn oai nghi là đi, đứng, nằm, ngồi. 38 Chan-jan (T46.163a 15-18) nói: {Trước hết, nhìn vào câu hỏi, mặc dù không phạm phải mười cách [thấy sai lầm về phát Bồ Ðề tâm] đã đưa ra, bên cạnh vẫn còn có mầm mống sai lạc đứng chung với nhau. Ðối với câu trả lời, khi hành giả đã thực sự đi xa những mầm mống sai lạc, và từ đó, hiểu được cảm và ứng từ [cảnh giới] bất tư nghị, thì [sự phát tâm] mới có thể được gọi là chân chính. Bậc thánh đáp ứng với vô ứng, và làm như vậy đến được tứ cơ (chi), người cảm nhận bằng vô cảm, và như thế đó, đạt được bốn lợi ích}. 39 Chan-jan (T46. 5a 21-22) giới thiệu người đọc đến với luận đề sâu hơn về cảm và ứng của Trí Khải qua tác phẩm Pháp Hoa Huyền Nghĩa., T33.646c-649c. 40 T14.544b. Ðoạn kinh tiếp tục: {Nếu đứa trẻ hồi phục, cha mẹ cũng hồi phục. Cũng như vậy, chư vị Bồ Tát thương yêu tất cả chúng sinh hữu tình như con trẻ của họ. Khi chúng sinh bệnh, Bồ Tát cũng bệnh, và khi chúng sinh hồi phục, Bồ Tát cũng hồi phục.} 41 T12.724a. Ðoạn kinh văn: {Ví một người cha có bảy đứa con, một đứa ngã bệnh. Dù rằng tình thương của cha mẹ đối với các con không thiên lệch, tuy vậy vẫn đặc biệt hướng về đứa trẻ mang bệnh. Nầy Ðại vương, Ðức Như Lai cũng vậy. Mặc dù lòng từ bi của Như Lai đối với chúng sinh bình đẳng, tuy vậy vẫn đặc biệt chiếu cố đến những kẻ tội lỗi.} 42 Chan-jan (T46.163a-24) nói: {Pháp tánh vững vàng như núi. Tội lỗi của chúng sinh sâu dày như biển. Nếu hành giả không có đại nguyện và phương tiện thiện xảo thì làm thế nào có thể đến với ngọn núi khó đến nầy và vào được lòng biển khó vào nầy?.} 43 Các phần nầy tương ưng với mục thứ năm và thứ tư trong phần nói về năm hạnh trong kinh Niết Bàn, T12.673b và được nói đến trong những chương sau. Anh nhi hạnh (4) liên quan đến sự thuyết giáo Tiểu Thừa thiếu đại bi đối với những căn cơ thiếu kém, trong khi chư Phật xem chúng sinh như con trẻ của chư vị. Bệnh hạnh (5) đối trị những chứng trầm kha khiến chúng sinh khổ. 44 Nguồn gốc không chắc chắn; có thể từ một bản kinh thiền nay không còn tồn tại. Như Chan-jan (T46.163b1) ghi chú, bốn loại tùy thuận (ssu-sui) và tứ tất đàn như nhau. 45 Mặc dù thường dịch là salvific capacity, chữ Cơ (chi) trong Hoa văn có nghĩa khác biệt trong triết học Trung Hoa mà Anh văn không có chữ tương đương. Trong Lão học hiện đại cũng như Phật học Trung Hoa, chữ Cơ đứng chung với hai từ quan trọng cùng nguồn gốc là cảm (kan) và ứng (ying) - như một hệ thống hoàn hảo để diễn đạt động năng từ đó Ðạo (hoặc Phật tánh siêu việt) đáp ứng nhân duyên thuộc thế giới hiện tượng của con người. Như vậy, chữ Cơ diễn tả {vùng ảnh hưởng}, là cái khi thành hình, đưa đến sự nối kết với Ðạo hoặc Phật tánh, và vì vậy, cơ cảm biểu hiện hoặc đáp ứng. Lối dùng chữ Cơ trong những tác phẩm của Trí Khải, đó là những phối cảnh mở rộng và pháp Phật hoạt dụng trên căn tánh mỗi cá nhân theo cơ cảm (một chuỗi {thần giao} thích nghi). Vì vậy, chữ Cơ, một cách ẩn dụ, luôn diễn đạt như {[trái] chín} hoặc {xanh non}, {thành tựu} hoặc {dang dỡ}. Khái niệm về {cách cảm}, đối lại, được mô tả xác thực trong Hoa văn với chữ ken (căn), gốc rễ nghiệp, hoặc định nghiệp. Chữ căn thường đi đôi với chữ lợi hoặc độn, thánh hoặc phàm. 46 T25.59b. 47 Tất Ðàn thứ ba và thứ tư trong Ðại Trí Ðộ Luận không những cùng ý nghĩa mà còn cùng tên với các pháp tương ưng thứ ba và thứ tư ( như đã nói trong bản kinh thiền không rõ xuất xứ). Nhóm thứ nhất và thứ hai chỉ khác tên gọi; như vậy có từng cặp phù hợp giữa các tất đàn và các pháp tương ưng. Ðọc Chan-jan, T46.163a 29-b1. 48 Avaivartya hoặc bất thối chuyển chỉ cho đoạn đường trên đó Bồ Tát không còn lui sụt, chắc chắn chứng đắc Bồ Ðề trong tương lai. 49 Chỗ nầy lấy ra từ 20 lý do thuyết giảng kinh Ðại Bát Nhã được nói trong chương thứ nhất của Ðại Trí Ðộ Luận (T25.57c-62c). Năm mục lần lượt tương ưng với phần thứ nhất, thứ hai, thứ ba, thứ tư, thứ năm, và thứ sáu. 50 {Năm nhân duyên} chỉ là một tên gọi khác của năm tiểu phẩm làm thành phẩm Ðại Ý tác phẩm Maha Chỉ Quán: (1) Phát đại tâm, (2) Tu đại hạnh, (3) Hiển đại quả, (4) Xé lưới nghi, và (5) Quy đại xứ. 51 Chan-jan, T46.163b18-19, nói: {Như năm phần quảng diễn nầy, bốn pháp tương ưng, bốn tất đàn, và năm nhân duyên đưa ra những phương tiện cảm ứng và thuận hợp với căn cơ, không hề có bất cứ yếu tố nào đi ngược lại tâm đại bi và [lòng mong muốn] làm lợi ích chúng sinh.} 52 Ðại Tập nói đến ở đây là Trung Luận, T30.39a- tức bản dịch tác phẩm Madhyamaka-karikas và phần chú giải của ngài Cưu Ma La Thập. Về văn bản Phạn văn, phẩm 27 có 30 bài kệ, đối lại với 31 bài trong bản Hoa văn của ngài Cưu Ma La Thập, bài (thứ 25) và phần chú giải không có trong nguyên bản Phạn. Chan-jan (T46.163b20-22) nói: {[Sự tương quan giữa]{pháp chân thực} và {người nói pháp} cho thấy rằng cái ứng (ying) vi diệu thì khó mà cảm (kan) nhận được. Những{người nghe được thì khó gặp} nói đến cơ cảm khó phát sinh. Ba chữ {khó có được}[trong Hoa văn] có ý chỉ cho ba điều: {diệu pháp, diệu ứng, và diệu cơ}. 53 Chan-jan (T46. 163b22-25) nói: {[Ðoạn kinh] từ ‘như vậy’ giải thích ‘pháp chân thực’. Bất cứ những gì được thuyết qua sự đáp ứng vi diệu từ cơ cảm nhiệm mầu đều đồng với Trung Ðạo. Vì lý do nầy, cặp [đối nghịch] [cùng] là phủ định. Chẳng ‘có’ chẳng ‘không có’ [rốt ráo] đồng thời phủ nhận giả và chân [lý]. Mặc dù trên văn từ nói là đồng thời phủ nhận, điểm [chân thực] là sự tương đồng [của những đối nghịch nầy]}. 54 Trí Khải hiển nhiên hiểu được chữ {chân}, là chữ đầu tiên trong câu trích dẩn, đối với người nói và người nghe cũng như đối với pháp, bởi vì nguyên bản cũng như chú giải của Pingala (T30.39a 16-20) đề nghị rằng văn từ chỉ nên dùng cho pháp. 55 Chan-jan, T46.163b26-29, nói: {Sự nhắc lại Tứ Tất Ðàn đưa những luận đề về {chánh pháp} đến chỗ kết luận. Ðiểm [chính yếu] nằm ở chỗ cho thấy rằng Tứ Tất Ðàn tương tự như khái niệm về nhị đế cũng như cảm và ứng. Do đó, Trung Ðạo hiển lộ và thành tựu như chân lý tối thượng. Chỗ nầy khác với [khái niệm] cột trụ về chân [được hiểu là đối nghịch với giả]. Ðó là lý do [những cặp đối nghịch như trên] đồng thời bị phủ nhận. Như vậy, hành giả phải thấy rằng cảm và ứng không ra ngoài nhị đế.} 56 Kinh Pháp Hoa, phẩm Phương Tiện (T9.7a) nói: {Chư Phật, Ðấng Thế Tôn, vì một đại nhân duyên xuất hiện trên cõi thế gian... vì muốn chúng sinh nghe được tri kiến Phật, và từ đó được thanh tịnh. Xá Lợi Phất, đây là đại nhân duyên mà chư Phật xuất hiện trên thế gian.} Ðọc Hurvitz, p.30. 57 Chan-jan, T46.163c2-6, nói: {Bốn pháp tương ưng có tên từ sự kiện rằng [chư thánh], vì đại bi, theo cơ cảm của chúng sinh. Tứ Tất Ðàn có tên từ sự kiện rằng [chư thánh], vì đại từ, [vì lời nguyện của chúng sinh] ban bố pháp dược khắp nơi. Ðại bi và đại từ là tên gọi khác nhau của cùng một thực thể. Cũng như một cảnh không hề đổi khác, nhưng người đứng ở bên trái liền nói rằng cảnh ở bên phải; khi người đứng bên phải liền nói rằng cảnh ở bên trái. {Năm nhân duyên} thì không gì khác hơn là năm tiểu phẩm [của phẩm Ðại Ý trong Maha Chỉ Quán]. 58 Chan-jan, T46.163c6-10, nói: {Sự hoán chuyển của hai chữ nhân và duyên [có thể giải thích như sau]: Nếu một người dũng mãnh phát tâm giác ngộ, người ấy được nhìn là [liễu] nhân, và thánh là [duyên] nhân, mặc dù tự người ấy có thể lợi ích từ sự đáp ứng của một bậc thánh. Nếu một người có chút ít tâm thanh tịnh, và được thánh nhân khuyến khích [phát tâm giác ngộ], thì sự đáp ứng của bậc thánh là [liễu] nhân, và chúng sinh là [duyên] nhân. [Sự khích động] sinh khởi trực tiếp là nhân; cái hòa hợp kèm theo là duyên. 59 Theo Chan-jan (T46.163c10-11) đây là bốn thuận pháp, bốn tất đàn, và năm nhân duyên. Năm phần quảng diễn thì bị bỏ lại ở phần toát yếu. 60 Ở đây Trí Khải đối chiếu pháp tương ưng thứ nhất và thứ hai với tất đàn thứ nhất và thứ hai nhưng không so sánh nhóm thứ ba và thứ tư, vì cả hai ý nghĩa và tên gọi đều giống nhau. Chan-jan (T46.163c16-18) nói: {‘Ái dục’ có nghĩa đơn giản là đắm mê và ưa thích. Vì vậy chúng ta đưa vào với [ý tưởng] nhân. ‘Thế giới’ chỉ cho uẩn (skandha) và xứ (ayatana), vì vậy chúng ta đưa vào với [ý tưởng] quả. ‘Thế giới’ có ‘sai khác’ là khái niệm chính, với ‘ái dục’ thì sự chọn lựa không giống nhau. Dù rằng nhân và quả có khác, ý nghĩa là một và như nhau. ‘Thích hợp’ xác định người nào thích ứng với pháp nào [đã thành tựu]. ‘Cá tánh’ xác định pháp mà một người có thể ưa thích bằng cách quán sát tánh chất của người nầy. Khi hướng đến người, thì phải chọn lựa pháp thích nghi, khi chọn pháp [trước hết] phải biết rằng người ấy có thể theo với pháp hay không. [Người] ưa thích và [pháp] là đối tượng ưa thích tạo thành một khái niệm.} 61 Chan-jan (T46.163c22-23) nói: {Ở đây năm nhân duyên phù hợp với các pháp tương ưng và các tất đàn, cho thấy ý nghĩa không khác.} Năm nhân duyên, như đã nói ở phần trên, chỉ cho năm tiểu phẩm thuộc phẩm Ðại Ý. 62 Bản kinh thiền không rõ xuất xứ đã nói trên, trong đó có bốn pháp tương ưng. 63 Ðại Trí Ðộ Luận, T25.59b. 64 Ở đây, hai tiểu phẩm {Hiển đại quả}thứ ba, và {Xé lưới nghi}thứ tư phù hợp với tất đàn thứ ba và pháp tương ưng thứ ba ( như đối trị). 65 Chan-jan (T46.164a 4-7) nói: {Một khi chúng sinh có được tam tuệ và tam nhãn trong nhất niệm, họ sẽ hội nhập được bí tạng (pi-tsang). Với chỗ nầy làm nhân, họ sẽ có cơ cảm với sự hiển lộ của chư Phật cho họ thấy rằng bằng cách nào [tất cả] những mục tiêu rốt ráo quy về ba tánh đức [Bồ Ðề]. Sự tu tập của chính họ sẽ viên diệu, và việc hoán chuyển chúng sinh của họ sẽ được thành tựu. Cả hai đều được gọi là {rốt ráo}. 66 Không rõ xuất xứ, nhưng Ðại Trí Ðộ Luận trình bày một thứ tự tu tập quy mô liên quan đến Bồ Tát đạo. Trong các luận đề về tiệm Chỉ Quán, Thứ Ðệ Thiền Môn (T’zu ti ch’an men), T46.508a-548c, của Trí Khải, những phần nầy lại được đưa ra chi tiết (theo thứ lớp của nguyên bản). 67 Chan-jan, T46.164a9-11, nói: {Tâm giác ngộ đưa đường hành trì, như cành lá phải từ gốc rễ. Và hành khiến nguyện thệ được tròn đầy, như gốc rễ phải ích lợi cành lá. Mặc dù gốc và ngọn khác nhau, nhưng hội hợp để sinh ra cây giác ngộ.} 68 Buddnusmrti (niệm Phật) là tu tập nhắc nhở tánh tướng của chư Phật, đồng thời tụng đọc hồng danh chư Phật. Ðặc biệt nhấn mạnh vào sự xướng danh liên tục, gọi là Tịnh Ðộ Tông, về sau phát triển lớn ở Nhật Bản. Chan-jan (T46.164a11-13) nói: {Tứ tam muội được xem là ‘phổ’ vì bao gồm đầy đủ pháp hành trì. Nghĩ nhớ đến chư Phật chỉ là một trong nhiều pháp tu tập, vì vậy gọi là ‘thù thắng’.} 69 Chan-jan (T46.164a 20-21) nói: {‘Quả và báo’ có ý nghĩa [bù trả] liên hệ đến [cả hai] chánh [nhân] và duyên [nhân]. ‘Duyên’ phải có phần hổ tương của ‘chánh’ [báo]. ‘Báo’ [hậu quả và ảnh hưởng của nghiệp] phải có phần hổ tương của ‘tập tục’ [hậu quả và ảnh hưởng của nghiệp]. Vì vậy, ‘quả và báo’ gồm cả hai cặp. {Tập}(hsi) và {báo}(pao) là hai trong sáu nghiệp nhân được phân biệt trong hệ thống A tỳ đàm. Nói một cách luận lý thì ảnh hưởng của tập tục được nhìn như là ảnh hưởng đưa đến quả của cùng bản nhân; báo được nhìn như ảnh hưởng đưa đến quả khác với bản nhân. Hai loại nầy được Trí Khải khai triển trong tác phẩm Thứ Ðệ Thiền Môn (T46.494a-c), MaHa Chỉ Quán (T46.112a-b), và Phương Ðẳng Tam Muội Hành Pháp (Fang-teng san-mei hsing-fa) (T46.946b-947a) của đại sư. Bản dịch Anh ngữ đi theo lối hiểu và cách dùng chữ đặc thù của Trí Khải: tập nhân và tập quả diễn đạt tâm trạng chủ quan hoặc trạng huống cảm xúc tồn tại lâu dài như một phần của chính tiến trình tâm linh. Chúng là chánh (cheng) bởi vì tác nhân của chúng làm thành tinh thần và thể chất một cá nhân. チnh hưởng và quả của nghiệp báo liên quan đến sự thành hình hoặc sự chín muồi của hạt giống từ những biến động hoặc tạo tác đặc thù. Bởi vì chúng liên hệ một cách trực tiếp đến sự tương tác với người khác và cảnh giới chung quanh nên gọi là duyên. 70 Bodhisattvaniyama. 71 Từ kinh Pháp Hoa, T9.5c, (Hurvitz, p.23). Ðây là một trong mười như-thị từ đó Trí Khải khai triển pháp tánh trong thuyết {nhất niệm tam thiên} của đại sư. Ở đây được dùng để nói đến chương cuối của phẩm Ðại Ý- là cái thứ năm trong năm nhân duyên. Chan-jan (T46. 164a 26-27) nói: {Phát đại tâm là gốc, quy [đại xứ] là ngọn.} 72 Chan-jan (Trạm Nhiên) khởi đầu một lý luận hy hữu về ý nghĩa của Chỉ và Quán đối với cấu trúc của phẩm Ðại Ý như một khối. Tôn giả kết thúc với nhận định- rất giống với những điều thấy trong phần mở đầu của phẩm nầy (T46.158c29-159a) -từ những đã giả định riêng rẽ {một hình thức Chỉ và Quán vượt ra ngoài ba loại [như thường thấy]}. Cần nhắc lại rằng điểm nầy nhấn mạnh sự kiện rằng sự giải thích về ba loại Chỉ Quán thuộc Thiên Thai Tông của Chan-jan là một lối giải thích đặc thù trong nhiều lối giải thích vào thời đại của tôn giả. Chan-jan (T46.164b2-11) nói trong đoạn nầy như sau: {Ở đây bao gồm ba hình thức Chỉ Quán. Những phần nói về cảm và ứng hầu hết không bao gồm cả ba. Nhưng nếu ý chỉ của đoạn văn thu hẹp lại, [đôi khi mạch văn] chỉ dùng một loại [Chỉ Quán], như trong mục tứ thệ nguyện và lục tức theo sau ... Hoặc có khi cả ba và một đều được dùng như trong đoạn văn hiện tại. Khi một [pháp Chỉ Quán] được dùng, đó là tổng [giải]. Khi ba [pháp] được dùng, gọi là biệt [giải]. Nếu người đọc không nắm được chỗ nầy, người ấy có thể sinh tâm chống báng. Vấn: {Tại sao cần phải xác định Chỉ và Quán?}. Ðáp: {Ba pháp nầy, như một khối, là điểm cao nhất của tất cả [giáo và hành]. Bởi vì văn mạch chủ yếu trong năm tiểu phẩm [thuộc phẩm Ðại Ý] bàng bạc khắp nơi, những đoạn văn từ chỗ nầy sang chỗ khác có khi dùng ba, có khi dùng một để lập luận. Hơn nữa, bản văn [MaHa Chỉ Quán] nầy mang theo tất cả những đề tài Chỉ Quán.} Ðây không phải là điểm mà trong đó không [nói đến danh tự] Chỉ Quán. [Vì nó liên quan đến đạo như toàn khối], hành giả không nên nghĩ rằng nó luôn hướng về một phương pháp hành trì thuộc lãnh vực tôn giáo bất cứ chỗ nào nó kết luận [một mục] về Chỉ và Quán. Thí dụ, trong [các mục nói về] ‘lý’ và ‘danh tự’- [là hai phần đầu] trong lục tức- cả hai đều kết thúc với Chỉ và Quán, như đoạn văn đang nói đơn thuần về cảm và ứng. Làm thế nào hành giả có thể giải thích được [từ bản văn] rằng có một pháp [Chỉ Quán] riêng biệt bên ngoài ba pháp [thường] nghe thấy?}. 73 Chan-jan (T46.164b17-18) nói: {‘Dần dần’ chỉ cho tiệm tiến; ‘liễu đạt’ chỉ cho đốn; ‘hỗn hợp’ chỉ cho bất định [Chỉ và Quán]}. 74 Chan-jan (T46.164b22) nói: {Vì mỗi tất đàn trong tứ tất đàn và [mỗi nhân duyên] trong năm nhân duyên được đưa ra trong mối tương phản với nhau, đó là tiệm [Chỉ Quán]}. 75 Chan-jan (T46.164b22-23) nói: {Vì một và bốn pha trộn vào nhau, đây gọi là bất định [Chỉ Quán].} 76 Chan-jan (T46.164b22) nói: {Vì trong một pháp, tất cả pháp đều có đủ, đây là viên đốn [Chỉ Quán].} 77 Chan-jan (T46.164b27-c1) nói: {Vì đoạn văn nầy tương ứng phát tâm [giác ngộ] với Quán, dừng vọng với Chỉ, hành giả nên biết năm nhân duyên [của phẩm Ðại Ý], hơn nữa, bốn pháp tương ưng, và bốn tất đàn không có bất cứ nghĩa nào mà không bao gồm trong phát tâm [giác ngộ] và dừng vọng. Cũng vậy, ba loại Chỉ Quán cũng không ra ngoài phát chân tâm và dừng vọng. Như vậy, hành giả nên biết rằng [sự tương quan] giữa một và ba [loại Chỉ Quán] trình bày duy nhất [sự khác biệt giữa] các [phối cảnh] tổng và biệt, [và các trục tôn giáo thì không khác]}. 78 Ðó là tiểu phẩm I, Phát Ðại Tâm. 79 Ðó là tiểu phẩm II, Tu Ðại Hạnh. 80 Ðại phẩm VIII. 81 Chan-jan (T46. 164c10-12), nói: {‘Nghịch’ có nghĩa nghiêng về hoặc Không hoặc Giả. Nói rằng ‘hai cực đoan’ vì [những cực đoan] nầy thì ‘nghịch’ đối với trung [đạo] hoặc quy về lý. Vì cái ‘theo sát’ với thực tại được gọi là ‘vi diệu’}. 82 Ðại phẩm IX. 83 Những cảnh giới cao nhất hoặc các cõi của mười pháp giới. 84 Sáu cảnh giới hoặc sáu cõi luân hồi cùng các cõi của A la hán, Duyên Giác, và Bồ Tát. 85 Chan-jan (T46.164c27-165a2), giải thích: {Ban bố đốn và tiệm một cách tùy thuận} chỉ cho giáo lý Hoa Nghiêm (Avatamsaka), bốn thời A Hàm (Agama), và Bát Nhã ba la mật đa (Prajnaparamita), [tùy thuận theo mức độ chín muồi của thính chúng]. {Hoán chuyển [từ tiệm vào đốn]} chỉ cho thời Hoa Nghiêm [khi tiệm giáo được dùng để diễn đạt viên đạo]. {Hoán chuyển [từ đốn vào tiệm]} chỉ cho thời Phương Ðẳng (vaipulya). Những lời ‘lưu thông’ xuất hiện ở cuối mỗi quyển kinh là phần có nghĩa là ‘truyền bá rộng rãi’}. 86 Từ kinh Ðại Niết Bàn, T12.616a-b. Cách diễn tả nầy cũng thấy cùng khắp trong kinh Pháp Hoa, T9.31b, 39a, 52a. Chính kinh Pháp Hoa được nhìn như {tạng pháp bí mật của chư Phật}, vì thuyết về diệu pháp của một Phật thừa, là {diệu tánh}của chư Phật (T9.10b). 87 T12.676b-683a. Sự diễn đạt về tứ đế là một cống hiến của Trí Khải phần lớn căn cứ vào danh từ và ý tưởng từ phẩm nầy trong kinh Niết Bàn. Tuy nhiên, những chữ Trí Khải dùng cũng song song với phần luận về tứ đế trong bản kinh Thắng Man (Srimala Sutra, T12.221a 20-b7). Bốn tầng lớp giải thích về tứ đế lần lượt đồng với Thiên Thai tứ giáo- Tạng, Thông, Biệt, và Viên. 88 Chữ {vô tác}đã được chọn trở lại mục thứ tư nầy trên nền tảng tứ đế trong tác phẩm Pháp Hoa Huyền Nghĩa của Trí Khải (T33. 701b7-8): {Hiện tượng chân thực như-nó-là tức trung [đạo]. Vì không có sự cân phân [về thực tại nầy], nên được gọi là {vô tác [tứ đế]}. Bản dịch Anh ngữ đầy đủ về phần nầy trong Pháp Hoa Huyền Nghĩa, đọc Swanson, Foundations of T’ien T’ai Philosophy, pp.226-234. 89 Hai đế đầu tiên. 90 Ðế thứ tư và thứ ba như thường thấy liệt kê. Trí Khải luôn luôn đảo thứ tự, để chữ ‘đạo’ trước chữ ‘diệt’. 91 Theo Chan-jan (T46.165b1-3) đây là bốn tướng diễn tả hiện trạng sinh, trụ, dị, và diệt của tất cả pháp, trừ mục thứ hai là trụ. Chan jan giải thích chỗ trống nầy khi nói rằng {trụ} cũng tan hoại trong {dị} với mục đích tránh làm cho người đọc nghĩ rằng các pháp là {thường}. 92 Chan-jan (T46.165b1-3) : {Bốn trạng thái của tâm} là bốn phiền não căn bản. Bởi vì chúng đi theo bốn tướng trạng nầy, bản văn nói là lậu. Chữ lậu không gì khác hơn là vòng sinh tử.} Kogi (1.226) tham, sân, mạn, và si. 93 Ðó là, giáo lý Tiểu Thừa đặt trọng tâm vào sự phân biệt rõ rệt giữa các pháp, và đưa ra sự kiện rằng các pháp nầy luôn tuôn chảy và biến dạng. 94 Tứ Ðế được giải thích dưới thứ bậc sinh diệt, hợp với Tạng giáo thuộc Tiểu thừa. 95 Hợp với Thông giáo (đọc Chan-jan, T46.165b13). 96 Có thể từ Tâm Kinh do Ngài Cưu Ma La Thập dịch (T no. 251), dù rằng đoạn văn dường như gần với bản dịch phổ thông của Ngài Huyền Trang (T no. 252) là bản Trí Khải ghi lại. 97 Raga, dvesa và moha- ba gốc độc là nền tảng của khổ. 98 Thêm chi tiết về Thông giáo, đọc Chan-jan (T46.165b13) Visesacinta-brahma-pariprccha (Tư Ích Phạm Thiên Sở Vấn Kinh), T no.586. 99 Theo Chan-jan (T46.165.b19). 100 Theo Chan-jan (T46.165b26-27) hình và tiếng hợp với khổ nhân, bóng và tiếng dội hợp với khổ quả. 101 Cái trước đạt đến Không qua lối chia chẻ thế giới hiện tượng ra từng phần theo với nhau. Cái sau chứng ngộ được Không một cách trực tiếp, như một sự vắng bặt của tự hữu hoặc tự tánh. 102 Ám chỉ ẩn dụ {hóa thành} trong kinh Pháp Hoa, T926a. Ðọc Hurvitz, pp.148-149. 103 Theo nghĩa đen, đây là {những phiền não được tẩy trừ trong lối thấy, và những phiền não được tẩy trừ qua lối hành động. Cái trước đưa ra những vọng chấp từ cách thấy, nghĩ. Cái sau thiên về cảm giác hoặc thói quen. 104 Kinh Thắng Man (Srimala Sutra, T12.219c-220a) phân loại những phiền não của cách thấy và làm sai lạc vào bốn nền móng của vọng hoặc chính: thấy, nghĩ sai lạc (tức hiểu sai tứ đế), và ba cách cảm nhận sai lạc (tức sự trói buộc vào các cõi Dục, Sắc, và Vô Sắc). Những nền móng vọng hoặc thứ năm và tiếp theo được thêm vào làm nguồn gốc của bốn cái khác từ vô minh (avidya). Tất cả, trừ vô minh, đều bị hủy diệt bởi Nhị Thừa. Chỉ có Phật mới có thể diệt hoàn toàn vô minh. Trí Khải, dựa vào một phần kinh Thắng Man khai triển thành một hệ thống gồm ba nền móng của vọng: kiến và tư hoặc, trần sa hoặc, và vô minh. Lần lượt mỗi chỗ ngăn ngại [đi vào] một trong tam đế Không, Giả, và Trung. 105 Cái thứ hai trong ba nền móng vọng hoặc của Thiên Thai Tông. Chan-jan (T46.165c7-8) nói: {Bụi (trần) và cát (sa) ở đây [nhấn mạnh] vào sự ngăn ngại không biết được vô lượng [pháp]. Vì bị trói buộc vào Không và Diệt, các hành giả thuộc Nhị Thừa chưa có phương tiện thấy được muôn vàn khía cạnh của huyễn hữu nhiều như số cát [sông Hằng]. Bồ Tát ở ngoài sự trói buộc của Không, chứng ngộ Giả đế, và vì vậy có phương tiện thích ứng giữa vòng sinh tử. 106 Cái thứ ba trong tam hoặc. Bằng cách loại trừ vọng hoặc nầy, Bồ Tát diệt vô minh là cái che mờ trung đạo, và đạt đến Phật tuệ. 107 Liên quan đến Viên giáo. 108 Bốn quốc độ hoặc cảnh giới tùy thuận với tam thân Phật và bốn thứ lớp trí tuệ phát triển: Phàm Thánh Ðồng Cư Ðộ là nơi có cả phàm lẩn thánh; Phương Tiện Hữu Dư Ðộ là cõi Thanh văn, Duyên giác; Thực Báo Vô Ngại Ðộ là cõi của Bồ Tát; và Thường Tịch Quang Ðộ là cảnh giới của chư Phật. Về ba thân Phật, Báo thân (pao-shen) và Pháp thân (fa-shen) tương hợp với cõi thứ ba và thứ tư, trong khi hai ứng thân (ying-shen)- thượng và hạ phân biệt theo cõi thứ nhất và thứ hai trong bốn cõi. Ðọc Muranaka, p.350. Về nguồn gốc của hệ thống nầy, đọc Ando, Tendai-gaku, pp.160-164. 109 Chan-jan (T46. 165c17-19) giải thích: {Giáo pháp được thành lập qua sự thích ứng với cơ cảm; và vì mức độ cơ cảm có khác nhau, giáo pháp cũng khác nhau. Bởi vì các quốc độ phù hợp với giáo pháp trên căn bản cao, thấp và số lượng [giáo pháp có mặt], nên gọi là {tung}. 110 Ðó là sự giải thích về vô sinh, vô lượng, và vô tác tứ đế thuận theo Tạng, Thông, Biệt, và Viên. 111 Những giải thích về vô lượng và vô tác tứ đế hoặc Biệt giáo và Viên giáo. 112 Vô tác tứ đế hoặc Viên giáo. 113 Ðiều nầy có nghĩa rằng các quốc độ cũng thuận với tứ giáo. Tuy nhiên, chỗ vừa vặn không phải là chỗ tốt đẹp, vì cõi thấp nhất cho kẻ phàm, cõi thứ hai cho Tiểu Thừa, trong khi giáo pháp thấp nhất trong tứ giáo chỉ Tiểu Thừa. 114 Pratiyasamupada. 115 Ðây là những con số 3-7 và 11-12 trong 12 số. Trong A tỳ đạt ma, nhóm thứ nhất được nhìn như quả (khổ) trong kiếp hiện tại, và nhóm thứ hai là quả trong kiếp vị lai. 116 Những số 1-2 và 8-10 trong 12 số. Nhóm thứ nhất là nhân trong kiếp quá khứ; nhóm thứ hai là nhân trong kiếp hiện tại. 117 Phần nầy là T12.768c. Thực sư, bản kinh phân biệt bốn loại hoặc bốn thứ bậc trí tuệ quán sát được nhân và duyên. Phần nối tiếp của Trí Khải về các loại trí nầy được trình bày trong những dòng theo sau. 118 Phẩm 24, bài kệ thứ 14, Trung Luận, T30.33b: {Bất cứ pháp nào từ nhân duyên sinh, tôi nói đồng với bất hữu (inexistence) [Trí Khải dùng chữ ‘Không’(emptiness)]. Nó cũng là giả danh. Ðây cũng là nghĩa của Trung đạo.} 119 Ở đây, Trí Khải đã hòa hợp bốn dòng kệ nổi tiếng với bốn thứ bậc chú giải về tứ đế. Chan-jan (T46.166a17-18) nói: {Hơn nữa, nhân và duyên là nền móng của tất cả các pháp; nhưng, vì sự khác biệt trong đường lối quán chiếu, nên có [ba cái thấy hoặc ba đế] Không, Giả, và Trung. Như vậy, trong khi có những khác biệt về giáo lý mà hành giả chứng ngộ, chúng không khác trong sự quán chiếu [chung] về nhân và duyên.} 120 Kogi (1.241) nghĩ rằng {hành}(samskara, móc xích thứ hai) nên được thêm vào vô minh ở đây. 121 Kogi (1.241) nhắc lại Koroku với quả mà thức nên được thay cho hành ở đây. 122 Từ bài luận tụng đến phẩm I, bài kệ 1 và 2 trong Trung Luận (T30.1b) được phân đoạn. Hai phẩm sau cuối của tập luận liên quan đến mười hai nhân duyên và các lối thấy sai lầm. 123 Ðó là phẩm 24, bài kệ 14; T30.33b. 124 Kogi (1.242) nhìn sự khác biệt nầy thực ra chỉ là tạm thời- mười hai nhân duyên đưa ra sự phân biệt giữa quá khứ, hiện tại, và tương lai, là cái không rõ rệt với tứ đế. 125 Chan-jan (T46. 166b6-9) nói: {Tứ đế là lý (li). Không khi nào phát tâm mà không lấy lý làm điểm tựa. Vì lý do nầy, khi nói về mười cách [phát tâm, bản văn] đặt lý ở chỗ đầu tiên.} 126 Ðó là sự khủng bố, phá hoại pháp Phật. 127 Trong đoạn văn theo sau, chỉ thấy Trí Khải nói về bốn trong mười trường hợp. Bản văn của Trí Khải kể ra mười, theo Chan-jan (T46.166b10-27) đưa ra một sự giản lược nhiều bảng liệt kê tương tự tìm thấy trong những bản kinh khác nhau, gồm có: Dasabhumika-vibhasa Sastra (Thập Ðịa Luận) (T26.35a-b), Upasaka-sila Sutra (Ưu Bà Tắc giới) (T24.1035b), Avatamsaka Sutra (Hoa Nghiêm kinh) (T9. 450b), và Ta-fang-pien fo pao-en ching (Ðại phương tiện Phật báo ân kinh) (T3.136a-b). 128 {Lý} ở đây có nghĩa là học thuyết tứ đế. Trong phần tiếp theo sau, Trí Khải cống hiến một đoạn văn giải thích qua từng phần trong tứ đế. 129 Chan-jan (Trạm Nhiên) chỉ ngay rằng mặc dù cách mô tả nầy dường như giống giáo lý Ðại thừa, nhưng thực sự vẫn còn nằm ở thứ bậc thuộc Tạng giáo Tiểu thừa- tức {Sinh Diệt Tứ Ðế}. Chan-jan (T46.166c20-25) nói: {Ở đây Tạng giáo cũng nói rằng pháp tánh là như-vậy, và [trong lối nhìn nầy] thì cũng không quá khác xa Biệt [giáo]. Vì lý do nầy, chúng ta nên nhận ra sự khác biệt giữa Giả [nghĩa của] pháp tánh và Chân [pháp tánh]. Vì Tạng giáo nhìn {Sinh [của khổ] không thể làm nó ô nhiễm, và Diệt không thể làm nó thanh tịnh}, thì phải có một pháp tánh là cái trang nghiêm vượt trên tứ đế.} 130 Kogi (1.247) và ‘Makashikan inyo tenkyo soran’, p.76 nói rằng xuất xứ của đoạn nầy là từ kinh Niết Bàn. Mặc dù nghĩa giống nhau, nhưng Maha Chỉ Quán hoàn toàn tách rời đoạn văn kinh trên. 131 Chan-jan (T46166c27-a1) chú thích: {Ẩn dụ về băng và nước giống như Viên giáo. Tuy nhiên ở đây, băng chỉ tượng trưng cho nhân quả trong sáu cõi [thuộc tam giới]. Pháp tánh là chân như thì biểu trưng là nước, kết thành [hình dáng khác với băng]. Mặc dù tên gọi tương đương, [công dụng của ẩn dụ ở đây] vẫn không chỉ rõ được tam đế và ba ngàn cảnh giới mà chính nó là tâm thể.} 132 Visesacintabrahma-pariprccha Sutra (Tư Ích Phạm Thiên Sở Vấn Kinh), T15.39b29. Trong phần chú giải trước (T165b13), Chan-jan ghi nhận bản kinh nầy rất gần với Thông giáo- là giáo pháp liên quan đến Vô Sinh Tứ Ðế. 133 Ðó là hàng phàm phu (prthagjana). 134 Hai cực đoan của hữu và bất hữu, sinh và vô sinh. 135 Hoặc Tathagatagarbha sutra (Như Lai Tạng), T16.457c. Bản kinh nầy thuyết về mười ẩn dụ nổi tiếng (trong những ẩn dụ khác) trình bày về Như Lai tạng hoặc hạt giống Như Lai có trong tất cả chúng sinh. 136 Chan-jan (T46.167a 2-4) nói: {Trong Biệt giáo, lý của pháp tánh ‘vượt trên hai cực đoan’. Hai giáo pháp trước (Tạng và Thông giáo) vẫn còn nắm bắt hữu và bất hữu. Ẩn và hiển [chiếu rạng] qua mười ẩn dụ trong bản kinh Như Lai Tạng có vẻ giống như [ẩn dụ dùng trong] Tạng giáo. Tuy nhiên, [cái thấy về] lý tánh thì hoàn toàn khác biệt.} 137 ‘Makashikan inyo tenkyo soran’, p.76, (có thể dựa và Kogi), ghi nhận xuất xứ từ Visesacintabrahma-pariprccha Sutra (Tư Ích Phạm Thiên Sở Vấn Kinh), T15.41a. 138 Chan-jan (T46.167a 2-4) đưa ra: {Vấn: ‘Sự suy luận về lý [đang nói ở đây khác với tứ đế [đã nói ở trên] khác nhau ra sao?.} {Ðáp: ‘Sự kết luận ở trên về tứ đế có ý đưa ra một điều sâu sắc có thể dùng làm điểm căn bản để lập luận. Trong phần nói về lý ở đây, những nét đặc thù được đưa ra liên quan đến pháp tánh. {Ðó là để nói rằng] bốn hạng hành giả [phát tâm] qua sự suy luận về hai loại pháp tánh. Vì những khác biệt giữa các [phương pháp] thâm sâu và đặc thù, được nhắc lại [vấn đề pháp tánh]}ở đây. Theo Kogi (1.252) ‘hoành’ là tất cả pháp trong mười cảnh giới, ‘tung’ là tam đế. ‘Sự và Lý’ tương đương với muôn pháp, trên mặt nầy, và với tam đế, trên mặt khác. 139 Thực sự, chỗ nầy không tìm thấy trong lục độ ba la mật hoặc trong thập độ. Dù rằng giới học giả hiện đại chấp nhận chữ ‘paramita’ có nghĩa là ‘độ’ hoặc ‘đại hạnh’, nghĩa được dùng theo truyền thống Trung Hoa là ‘đáo bỉ ngạn’. 140 Chỗ nầy chỉ cho ba mươi hai tướng hảo và tám vẻ đẹp của ứng thân Phật. Bảng liệt kê của Trí Khải xuất xứ từ Ðại Trí Ðộ Luận, T25.90a-91a. Phần Anh ngữ, đọc Hurvitz, Chih-I, pp.353-361; Dayal, The Bodhisattva Doctrine in Buddhist Sanskrit Literature, pp.300-305. 141 Ðại Trí Ðộ Luận, T25.90b. Ðoạn nầy nói về tướng thứ hai, là tướng ngàn đường chỉ hình xoắn dưới bàn chân Phật. Visvakarman là tên gọi {đấng tạo hóa} hoặc {bậc tối cao}, là Thượng Ðế của Vedas (Vệ Ðà). 142 Chan-jan (Trạm Nhiên) nhìn hai đoạn nầy như sự giản lược của tứ hoằng thệ nguyện, được nói chi tiết trong phần theo sau tứ đế. Tôn giả nói (T46.167b5-8) :{[Nói rằng] ‘Tôi nguyện trở nên một vị Phật’ thì tương đương với lời nguyện thứ tư ‘Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành’. [Nói rằng] ‘Tôi nguyện cứu chúng sinh’ thì không khác lời nguyện thứ nhất ‘Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ’. Ðể cứu được chúng sinh, hành giả phải ‘pháp môn vô tận thệ nguyện học’. Ðể chứng đắc được giác ngộ như Phật, hành giả phải ‘phiền não vô lượng thệ nguyện đoạn’. Như vậy, bản văn chỉ nói đến hai trong bốn lời nguyện, và hai lời nguyện còn lại.} 143 Chỗ nầy phù hợp với Tạng giáo, giáo pháp thấp nhất trong tứ giáo của Thiên Thai Tông. 144 Chan-jan (T46.167b11-14) nói: {Khi hành giả nhìn tướng hảo của Phật theo Thông [giáo], đó chỉ là vấn đề thấy sự trống vắng của tướng trạng tuyệt hảo của Tạng [giáo] trước đó. Như Lai là trang nghiêm, thân tướng tự trang nghiêm. Vì đối tượng trang nghiêm rỗng lặng, làm thế nào có được [cái gọi là] trang nghiêm. Tướng trang nghiêm và đối tượng diễn đạt sự nhận thức và đối tượng nhận thức như được tạo tác từ cái thấy của hành giả. Ðối với cách dùng chữ {rỗng lặng} ở đây, tướng chính nó là {vô tướng}. Nhưng chỗ nầy không được hiểu là [chân] vô tướng. [Nhiều] người đã dùng [ý niệm nầy] quá lõng lẽo. Hành giả nên rất thận trọng về điều nầy.} 145 Lối phát tâm nầy thuận với Thông giáo. 146 Chan-jan (T46.167b19-20) giải thích: {Ðối với tướng của báo thân Phật, vì đó là thân như gương sáng [có] từ sự chứng ngộ được pháp tánh, không có bất cứ hình tướng nào mà không ảnh hiện trong đó. Nói rằng ‘chỗ tận cùng của mỗi tướng hảo vượt trên cái thấy của phàm và thánh’ có nghĩa rằng phàm và thánh trong hai giáo pháp trước cũng như những người chưa đến được thập địa trong Biệt giáo thì không thể so lường được chỗ tận cùng của báo thân Phật.} 147 Từ Guhyaka-vajrapani Sutra (Kim Cang Mật Kinh) trong Ratnakuta (Ðại Bảo Tích), T11.54a. Trên đãnh tướng của Phật có ẩn nhục kế (usnisa) vô hình (invisible) mà ngay cả Phạm Thiên là vị Trời tối cao cũng không thể thấy được. 148 Từ Kim Cang Mật Kinh, T11.54c-57a. Vị đại đệ tử của Ðức Phật Thích Ca muốn khám phá âm thanh của Phật [có thể lan truyền] bao xa, nhưng dù cho tôn giả biến hình xa đến đâu, âm thanh của Phật vẫn trong sáng và rõ rệt ví như Phật đang đứng trước mặt tôn giả. Câu chuyện nầy có ghi trong Ðại Trí Ðộ Luận, T25.127c. 149 Từ Vajracchedika-prajna-paramita Sutra (Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật), T25.786a. Ðây là tập luận về kinh Kim Cang gồm có những bài kệ toát yếu của Ngài Maitreya (Di Lặc) với phần chú giải của Ngài Asanga (Vô Trước). Chan-jan (T46.168a 7-10) giải thích: {‘Vô tướng’ chỉ cho pháp tánh. ‘Trang nghiêm’ chỉ cho [hai sự kết hợp của] trí tuệ và đức hạnh. Trí tuệ và đối tượng của nó tương thành và hoạt dụng đáp ứng khắp pháp giới. Chỉ những người có cùng mức độ [chứng đạt] mới có thể thấy được cái không trang nghiêm [trang nghiêm]... Ðó là chỗ hiểu của Bồ Tát thập địa Biệt giáo.} 150 Hợp với Biệt giáo. 151 Hợp với Viên giáo. Chan-jan (T46.168a10-13) nói: {Vì Phật tuệ dựa vào Pháp thân, có đặc tính ‘thâm nhập’. Ðể cho thấy chính Pháp thân là nền tảng và nguồn cội của tất cả tướng, [bản văn] nói ‘ba mươi hai tướng trang nghiêm Pháp thân’. Xa hơn, kinh Hoa Nghiêm thuyết rằng mỗi tướng hảo gần như hư không.} 152 Chan-jan (T46.168a 19-20) tóm tắt các mục từ phát tâm cho đến thấy thân tướng Phật: {Mỗi đoạn văn trong các mục nầy đều bắt đầu với những chữ ‘Khi hành giả thấy Như Lai’. Vì vậy, tất cả đều nhìn Như Lai trong giáo lý Tạng giáo như đối tượng nền tảng [trong lập luận và quán chiếu]. Tuy vậy, bốn phối ảnh khác nhau trong khái niệm về hình tướng.} 153 Maula-dhyana (Căn bản thiền). Bốn pháp thiền căn bản và bốn vô tướng tam muội (samapatti) từng cái được phân biệt như duyên nhân hoặc viên chứng hoặc phần chứng tùy theo thứ bậc thiền định chỉ chế ngự hoặc đã hoàn toàn diệt được phiền não. 154 Chan-jan (T46. 168a26-29) giải thích : {Chỗ nầy cũng giống như khi một người làm trò ảo thuật nói thì cái bóng của người ấy cũng nói, khi người ấy lặng im thì cái bóng cũng lặng im. Nói và nín đã vậy thì những hành động khác cũng như vậy. [Cho thấy rằng] không có hành động [tự lực] của riêng nó.} 155 Ðối với cõi địa ngục thấp nhất và cảnh trời cao nhất thuộc cõi Sắc. 156 Chan-jan (T46.168b15-16) nói: {Vì ở đây hành giả nương vào lý nên khác với Tạng giáo hành giả nương vào vào căn bản thiền. Cũng vậy, bởi vì không có tướng nhị nguyên nên khác với Tạng giáo là nơi hành giả chuyên tâm vào một hiện tượng và làm sinh khởi hiện tượng đó.} 157 Chan-jan (T46.168b21-24) đưa ra: {‘Garbha’ ở đây có nghĩa lý tánh (li-hsing). [Như Lai Tạng nầy] không thể tự hiển lộ sự chuyển đổi [như nó là]. Hành giả phải đến được thập địa, làm đầy đủ duyên lực và lộ bày chân tu trước khi hành giả có thể đến được những loại chuyển hóa nầy. Chỗ nầy hoàn toàn khác với căn bản [thiền thuộc Tạng giáo] và lý vô sinh [nền tảng của Thông giáo]. {Tam muội tương viên}(perfect equipoise of samadhi) có nghĩa là bậc thứ nhất trong [mười] địa, hành giả làm việc Phật làm trong một trăm cõi nước khắp mười phương. } 158 Chan-jan (T46. 168c4-5) nói: {[Danh từ] ‘thần biến’ không những chỉ cho thân [ứng hóa]. Tất cả những thiện xảo về khẩu và ý cũng là ‘thần biến’.} 159 Chan-jan (T46.168c23-24) nói: {Bắt đầu từ đề mục nghe [giáo pháp] sinh diệt [tứ đế] nầy, và tứ giáo [sẽ được lần lượt trình bày]. Từng phần tuần tự sẽ được giải thích qua bốn lối nhìn khác nhau.}Như vậy, mỗi giáo pháp [được diễn tả qua tứ đế] lại được giải thích qua tứ giáo, từ đó đưa ra mười sáu lối nhìn. 160 Chỗ nầy thuộc Tạng giáo (tức sinh diệt tứ đế). Chan-jan (T46.168c25-28) nói: {Sinh có trong diệt, cho nên [bản văn] nói: ‘luôn luôn mới’. Vì [tiến trình nầy] mang dấu vết của tứ tướng [sinh, trụ, dị, diệt] nên bản văn nói là ‘thay đổi’. Chỗ nầy làm rõ nghĩa khổ đế và tập đế. ‘Giới và tuệ’ tóm lược đạo đế, và ‘giải thoát’ tức diệt đế, cả hai mặt hữu lậu và vô lậu. Tịch là lý của diệt được chứng ngộ.} 161 Từ kinh Niết Bàn, T12.781a. 162 Chỗ nầy thuộc Thông giáo (tức vô sinh tứ đế). Chan-jan (T46.169a 3-4) nói: {Vì không có chủ thể [chứng đắc], nên [chủ thể và đối tượng] là ‘Không’. [Bởi vì là] Không, [bản văn] nói là ‘Tịnh’. Chủ thể chỉ cho diệt và đạo; đối tượng chỉ cho khổ và tập. Bởi vì chủ thể và đối tượng bất nhị nên [bản văn] nói là ‘tịch’.} 163 Chỗ nầy thuộc Biệt giáo (tức vô lượng tứ đế). Chan-jan (T46.169a5-7) nói: {Ở đây, những cực đoan chính nó không thực sự đồng với trung đạo. Hơn nữa, Trung được giả định trên hai nền móng cực đoan [Không và Giả]. Như vậy, qua ẩn dụ theo sau, hoa trung đạo trổ trên mặt nước của hai cực đoan, ánh trăng trí tuệ xuyên [mây] mù và trụ giữa khung trời pháp tánh.} 164 Chỗ nầy thuộc Viên giáo (tức vô tác tứ đế). Chan-jan (T46.169a7-9) nói: {Dù rằng tam [đế] tương nhập [vào nhau], bản tánh của trung [đế] là tất cả [những cực đoan] đồng tịch diệt [và đồng chiếu soi]. Sự tương nhập của ba và một [như] viên mãn pháp giới. Tên gọi [chân đế và pháp gìới] có khác, nhưng ý nghĩa thì như nhau.} 165 Chan-jan (T46.169a13-15) đưa ra: {Ðá và ngọc, độc dược và lương dược tự căn nguyên không phải là hai thứ khác biệt. Tùy theo mỗi cảnh huống chủ yếu khác nhau, mỗi thứ được nhìn nhận và dùng khác nhau. Giáo pháp cũng vậy. Tự nguyên lai vốn là tất cả pháp giới [một và như nhau].} 166 Dục, Sắc, và Vô Sắc. 167 Phối cảnh và chú thích thuộc Tạng giáo. Chan-jan (T46.169a 17) ghi nhận: {Ðây là bốn lối giải thích khi nghe được pháp vô sinh [tứ đế]}. Các Bồ Tát không chứng đắc được vô sinh vì các hình tướng hoại diệt thiên lệch trong Tạng giáo đối với họ là xấu ác. 168 Lối thấy của Thông giáo. Chan-jan (T46. 169a19) nói: {[Từ lối nhìn của Thông giáo] tam thừa cùng chung một đường lối tu trì [diệt phiền não từ lối thấy và làm sai lạc hằng giam giữ chúng sinh trong ba cõi]. Như vậy tất cả chứng được vô sinh.} 169 Lối thấy của Biệt giáo. Chan-jan (T46.169a19-21) giải thích: {Nếu vô sinh chỉ tác dụng trên sự diệt trừ kiến và tư hoặc thì nhị thừa ‘có phần’ trong ấy. Nhưng ở đây [theo Biệt giáo] vô sinh được hiểu là diệt trừ căn bản vô minh [là cái che mờ trung đạo]. Như vậy, nhị thừa ‘không có phần’ trong ấy.} 170 Chữ sinh (sheng) được dùng ở đây có nghĩa là sinh ra cũng có nghĩa là phát khởi. 171 Ðây là hai loại luân hồi đã được phân biệt trong kinh Thắng Man, T12.219c. Thứ nhất, ‘phàm phu luân hồi theo định phận’ mô tả thực nghiệm theo nghiệp luân hồi như sinh tử trong sáu cõi cố định. Thứ hai, ‘siêu luân hồi’ mô tả luân hồi như phương tiện đồng thời phát khởi và chứng nghiệm bởi chư Bồ Tát là những bậc đã đạt đến chỗ như ý sinh thân với mục đích cứu độ chúng sinh. 172 Lối thấy của Viên giáo. Chan-jan (T46.169a22-23) giải thích : {Khi nghe được giáo lý trong Phạn âm a, hành giả liền theo đó mà chứng ngộ được giáo lý trong toàn thể 42 mẫu tự. Ðây là giáo lý Viên giáo.} Mẫu tự a , theo Viên giáo, diễn đạt chân vô sinh và sự chứng ngộ trung đạo. 41 mẫu tự còn lại tương đương với 41 quả vị Viên giáo sau sơ trụ, và các nền tảng tư tưởng. 173 Chan-jan (T46.169a23) luận: {Ðây là các thứ lớp của bốn lối giải thích liên quan đến nghe được vô lượng [tứ đế].} 174 Lối thấy của Tạng giáo. Mười sáu chân lý diễn đạt mười sáu tầng lớp diệt trừ tư hoặc đối với tứ đế thuộc Tiểu thừa. Ðó là những chứng ngộ từng phần hoặc toàn phần tứ đế trong cõi Dục (8 mục). Ðọc chi tiết trong Mochizuki, Bukkyo daijitten, 3.2288c. 175 Thuộc Thông giáo. 176 Thuộc Biệt giáo. 177 Trần sa hoặc- là cái thứ ba trong tam hoặc do Thiên Thai Tông lập ra- mô tả sự mê đắm trong Không làm cản trở cái thấy được Giả đế và phương tiện hoạt dụng của Bồ Tát. 178 Cái thứ ba trong tam hoặc. Vô minh che mờ trung đạo. 179 Kogi (1.278.279) lầm rằng mục nầy chấm dứt với sự quản thúc và tiêu diệt vô minh, vì dường như không nói gì khác hơn là điểm cao nhất của con đường tiệm tiến thuộc Biệt giáo đã nói trước kia. Như vậy, có vẻ như Trí Khải lướt qua Viên giáo. Ðể giải quyết sự mơ hồ nầy, Kogi đề nghị rằng câu ‘cả hai quản thúc và tiêu diệt vô minh’ phải mô tả Viên giáo nơi quản thúc và tiêu diệt được hiểu, một cách đồng thời, có nghĩa chẳng quản thúc/chẳng tiêu diệt và tất cả quản thúc và tiêu diệt. Chính Chan-jan cũng không đối chiếu quan điểm của Viên giáo ở đây là gì. 180 Chan-jan (T46.169b7) nói: {[Ở đây bắt đầu] thứ lớp của bốn lối giải thích [khi nghe được pháp] vô tác [tứ đế].} 181 Ðó là, Nhị thừa chứng ngộ vô tác theo lối hiểu cá biệt của chư vị. Kogi cho rằng đoạn nầy xuất xứ từ kinh Samyuktagama (A Hàm) (T2.85b). Vấn đề nầy còn là nghi vấn. 182 T15.37a. Theo bản kinh ‘Tư Ích Phạm Thiên Sở Vấn’ 500 tỳ khiêu nghe Phật thuyết Niết Bàn vô tác, bạch lời rằng: {Chúng con ngày nay đã chứng ngộ chân tánh và tịnh diệt tất cả hành vi ô nhiễm mà vẫn không hành động... Niết Bàn bổn tánh là vô tác. Vì chúng con đã chứng đắc, chúng con nói rằng chúng con hành động [và tạo tác] mà vẫn không hành động.} Câu văn ‘Bồ tát không thể đến được chỗ chứng ngộ nầy’ không có trong đoạn kinh văn nầy, mặc dù các nhà chú giải giả định là ở đây. Chan-jan (T46.169b8-9) nói: {Từ cái hiểu của Tạng giáo về vô tác, Bồ tát không diệt ô nhiễm của họ, và vì vậy, không chứng đắc được vô tác.} 183 Thuộc Thông giáo. 184 Thuộc Biệt giáo. Chan-jan (T46.169b10) nhận định: {Ba mươi [quả vị Bồ Tát đạo] ở trước thập địa là giả [vị]. Chỉ có thập địa là quả vị chánh chân.} 185 Thuộc Viên giáo. Chan-jan (T46.169b11-12) nói: {[Với Biệt giáo] nhị đế [Không và Giả] tô đậm [sụ tu tập ở tất cả] thứ bậc [Bồ Tát đạo] trước [thập] địa (bhumi). Nhưng ở đây, [tất cả các địa và cái nhìn về Không và Giả] được hiểu là đồng với Trung đạo là cái được chứng ngộ trên đường vào thập địa. Như vậy có thể nói rằng ‘giả và chân’ tương đồng với nhau.} 186 Trung Luận (T30.33b) Câu kệ đọc là: {Bất cứ pháp sinh từ căn bản nhân và duyên, tôi nói đồng với Không (bất hữu). Ðó cũng là giả danh. Ðiều nầy, hơn nữa, là nghĩa của Trung Ðạo.} Chan-jan (T46.169b15-16) nói về đề mục nầy như sau: {[Ở đây bản văn] luận về sự tương đồng của tam đế trong Trung Luận với mục đích tổng kết bốn lối giải thích.} 187 Chan-jan (T46.169b17-20) nói: {Chỗ nầy giống như nói về một người ngã từ đỉnh núi đá cao chết trước khi rơi xuống đất. Chữ ‘thì mới’ có nghĩa như ‘phải là’. Khi hành giả tu tập quán chiếu về vô thường, cũng chưa biết được rằng [vô thường] thực sự đồng với Không, cái nghĩa ‘phải là’ Không đã có sẳn trong đối tượng. 188 Chan-jan (T46.169b20-23) giải thích: {Có hai loại Giả lập trên căn bản nhân duyên, mỗi loại chính nó tự khác biệt. Có thể nói rằng [cái thấy về] Không và Trung Ðạo cũng như vậy. Giả tưởng sai lầm được nói đến ở đây phát sinh qua sự tùy thuận vào vô lượng [nhân và] duyên. Nó không giống như những phương tiện giả lập khác nhau chủ định làm lợi ích cho chúng sinh trên nền tảng của Không.} 189 Ucchedavada (Ðoạn) và Sasvatavada (Thường). Chan-jan (T46. 169b 23-24) nói: {Một trung đạo dưới hình tướng tách rời thường và đoạn cũng được Nhị thừa chứng đắc.. Nhưng vì quả vị Bồ Tát vượt quá xa quả vị của môn đồ tam thừa, chỉ [riêng] được nhận sự khác biệt của cái gọi là trung [đạo].} 190 Ðây là lối thấy của Tạng giáo. 191 Từ kinh Niết Bàn (T12.746b); cũng trích trong Upasaka-Sila Sutra (kinh Ưu Bà Tắc) (T24.1034). Khi một con thỏ, một con ngựa, và một con voi vượt sông, con thỏ chỉ bơi được trên mặt nước, con ngựa thì có thể xuống sâu hơn, và con voi có thể đặt chân vững vàng tận đáy sông. [Ví dụ nầy] lần lượt đưa ra những khác biệt trong sự chứng ngộ pháp tánh của tam thừa như Thanh văn, Duyên giác, và Bồ tát. 192 Chan-jan (T46.169c15-16) nói: {Vì tam đế thật sự có mặt, [lối thấy nầy] không giống như lối thấy của Tạng và Thông [giáo]. Như vậy, không phải bị chống đối, nhưng đã có lỗi lầm vì đi theo thứ lớp [tam đế] và chưa thể được gọi là ‘viên’... Dù rằng tam đế tất cả là Không, tất cả là Giả, và tất cả [đồng với] Trung [đạo], hợp lại chúng vẫn giữ một sự kế tiếp.} 193 Chan-jan (T46.169c18) nói: {Từ tâm Không, hành giả đi vào Giả. Vì vậy, đối bệnh mà cho thuốc pháp. Như vậy, cả bệnh lẩn thuốc đều đồng với Không.} 194 Chan-jan (T46.169c20) nói: {[Ðây là] nguyên lý Trung Ðạo xa rời tất cả [khái niệm đối nghịch] cực đoan. Chỗ nầy không gì khác hơn là chân Không.} 195 Chan-jan (T46.169c23-24) nói: {Mặc dù tam đế cũng chỉ là tên gọi, tuy nhiên, có thứ lớp trước sau. Vì vậy, [ba dòng kệ] vẫn riêng rẽ.} 196 Chan-jan (T46.169c24-28) nói: {Rằng ‘ba là tất cả trung’ cũng giống như Viên giáo, khi một trung thì tất cả trung. Tuy vậy, một cách tổng quát thì vẫn có thứ lớp, và danh từ ‘trung’ đặt ra trong một ý nghĩa giả danh và phương tiện. Như vậy, tam đế vẫn diễn tả một thứ lớp rõ ràng [cái nầy rõ phân đối chiếu với cái khác]. Vì [Không] tách rời [những cực đoan] Ðoạn và Thường nên gọi là {trung đối với chân lý}. Thứ bậc nầy thuận với thập trụ. Vì [Giả] không đoạn tuyệt hình tướng khi hợp hòa với cơ cảm nên gọi là {trung qua cơ cảm}. Thứ bậc nầy thuận với thập hạnh và thập hồi hướng. Vì [Trung trụ ở] chân lý chính nơi pháp tánh nên gọi là {trung đối với thực tại}. Thứ bậc nầy thuận với thập địa.} 197 Chan-jan (T46.170a6-9) nói: {Pháp là đối tượng [được chứng ngộ]. Chúng ta xác định đối tượng nầy qua tứ đế. Trên căn bản [tiếp nhận] đối tượng nầy, phát sinh hiểu biết. Qua sự hiểu biết, nguyện phát sinh. Vì vậy, nguyện được gọi là {phát tâm giác ngộ}. Người trên thế gian ngày nay phần lớn cho rằng ngồi thiền và an tâm (an-hsin) [qua quán chiếu] là phát tâm [giác ngộ]. Những người như thế đó hoàn toàn thất bại trong việc nhận ra đối tượng dụng công của mình là gì. Họ tuyệt đối không có được mục tiêu trong tâm, và không hề có bất cứ dấu vết nào là {thượng cầu}. Họ cũng không có một ý tưởng rõ ràng về đại bi, và vì vậy hoàn toàn không [nghĩ gì đến] {hạ hóa}. Vì vậy, hành giả [phải biết rằng] phát tâm giác ngộ nằm trong nền tảng đại bi.} 198 Thứ tự của hai mục sau cuối đảo ngược thứ tự đưa ra ở phần mở đầu đề mục phát tâm giác ngộ. 199 Mặc dù Trí Khải và Quán Ðảnh không nói gì nhiều hơn ở đây, trong phần chú thích của Chan-jan (T46.170a10-c9), tôn giả luận chi tiết về những phần còn lại nầy. Chứng kiến sự suy tàn của giáo pháp, thí dụ, có thể phát tâm giác ngộ qua cơ cảm hành giả nương vào để bảo tồn giáo pháp. Thấy người khác làm những việc sai lầm, có thể [phát tâm giác ngộ] vì nhân đó, hành giả hiểu được nguyên nhân của khổ từ hành vi. 200 Theo Chan-jan (T46.170c16-17). 201 Nghĩa đen, {phân biệt cái gì là chủ thể đối với ba cõi Dục, Sắc, và Vô Sắc, và cái gì vượt trên ba cõi nầy.} 202 Chan-jan (T46.170c20-23) nói: {Chân lý và pháp tánh khác tên nhưng đồng nghĩa. Những chúng sinh có căn cơ sắc bén hoặc trì trệ thuộc cõi người lầm lạc chân lý. Những chúng sinh có căn cơ sắc bén hoặc trì trệ thuộc cõi trời lầm lạc trung đạo. Hoặc lầm chân lý hoặc lầm trung đạo, dù rằng đối tượng của sự lầm lẩn và đối tượng của sự hiểu biết của chúng sinh là một và cùng pháp tánh, sự khéo léo hoặc vụng về trong hiểu biết và lỗi lầm đều khác nhau. Vì vậy mà thành ra bốn.} 203 Chan-jan (T46.170c24-27) nói: {‘Sắc bén’ ám chỉ ‘đồng nhất’, ‘trì trệ’ ám chỉ ‘cách ly’. ‘Khế hợp và không khế hợp’ tác động giống nhau. ‘Cách ly’ có nghĩa rằng khổ và nguồn cội khổ được nhìn cách biệt với pháp tánh. ‘Ðồng nhất’ có nghĩa rằng pháp tánh chính nó đồng với khổ và nguồn cội khổ. Ðối tượng hiểu biết được nhìn là biệt bởi vì chủ thể hiểu biết không khế hợp. Ðối tượng đó được nhìn là đồng bởi vì chủ thể hiểu biết thì khế hợp.} 204 Chan-jan (T46.17a5-6) nói: {Như vậy ý niệm khổ và tập luôn khác với pháp tánh tiêu biểu những người thuộc Tạng và Biệt giáo... Khái niệm khổ và tập đồng với pháp tánh tiêu biểu những người thuộc Thông và Viên giáo.} 205 Từ ẩn dụ về hóa thành trong kinh Pháp Hoa, T9.26a. Hóa thành chỉ là chỗ nghỉ chân trên đường đến với giải thoát, là kho châu ngọc. 206 Theo Murankana, p.78. 207 Câu hỏi nầy đề cập đến từng cặp một-với-một mà Trí Khải đã lập ra giữa tứ giáo và bốn dòng kệ (7a24ff), bắt đầu với câu ‘các pháp sinh từ căn bản nhân và duyên’. Người đưa ra câu hỏi hiểu rằng cặp tứ đế đầu tiên có thể được nhìn như nói về pháp hữu lậu, nhưng người ấy khó hiểu được tại sao cặp tứ đế thứ hai cũng lại là hữu lậu. Chan-jan (T46.171b18-21) nói: {Khổ và tập có những lầm lạc vì căn bản của chúng, và có thể nhìn như nhân duyên. Nhưng đạo và diệt tiêu trừ lầm lạc. Vì sao lại nói rằng chúng cũng từ căn bản nhân duyên?. Câu trả lời theo sau giải thích rằng khổ và tập bị diệt trừ vốn từ nhân duyên mà có. [Hơn nữa], nếu không có khổ và tập, thì cũng không thể có đạo và diệt. Cái nầy có từ cái kia; vì vậy cũng là từ nhân duyên. 208 T12.732a. 209 Chan-jan (T46. 171b28-29) giải thích: {Những phương tiện giả lập trước hết được phát triển trong mục đích hiển lộ [rốt ráo] thực tại của nhất chân pháp giới. Vì phương tiện giả được lập ra thay mặt cho sự chân thực, một lằn mức phân chia đã được vẽ ra giữa giả và thực. Với giáo pháp giả và thực [nầy], khả năng thấy hiểu [của mỗi người] sẽ khác nhau. Như vậy, từng cặp một- giả và thực, [căn cơ] sắc bén và trì độn đã rõ ràng.} 210 Chan-jan (T46.171c2-4) giải thích:{Với tên gọi ‘tứ hoằng thệ nguyện’, ‘hoằng’ có nghĩa ‘sâu rộng’. ‘Nguyện’ có nghĩa ‘hứa giữ hoặc tuyên thệ’. Như vậy nhóm chữ trên có thể được giải thích là ‘tuyên thệ một sự hứa giữ sâu rộng’. Ở đây, hành giả tuyên thệ hoặc giữ gìn sơ phát tâm giác ngộ bằng phương tiện của bốn lời nguyện.} Tứ hoằng thệ nguyện xuất phát từ ‘P’u-sa ying-lo pen-yeh ching’ (Bồ Tát Anh Lạc Bổn Nghiệp Kinh) (T no.1485), một bản ngụy tác kinh Phật có thể xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ năm ở Trung Hoa. Bốn lời nguyện nầy được giới Phật tử tụng đọc khắp nơi ở Ðông Á vào thế kỷ thứ bảy, gồm có: {Chúng sinh vô biên tôi thệ nguyện độ. Phiền não vô tận tôi thệ nguyện diệt. Pháp môn vô lượng tôi thệ nguyện hành. Phật đạo vô thượng tôi thệ nguyện chứng.} 211 Chan-jan (T46.171c7-11) nói: {Mặc dù việc phát tâm [giác ngộ] đã được nói rộng trên nền tảng chân lý [tứ đế], những người học pháp Phật mà chưa hiểu được nhiều thì chưa thể nhận thấy rằng chính tứ đế phục vụ như đối tượng của bốn lời nguyện. Vì vậy, [bản văn] lại thêm một lần nữa giải thích tứ đế trong tương quan với tứ thệ nguyện. ... Tứ đế là đối tượng [của trí tuệ]. Từ đối tượng nầy, phát sinh hiểu biết. Vì vậy, [bản văn] nói: ‘qua sự hiểu biết’. Ðối với ‘bốn lời nguyện’ sự phát nguyện phát triển trên nền tảng hiểu biết. Vì vậy, [bản văn] nói: ‘với sự nhấn mạnh trên lời nguyện’. Hơn nữa, vì tứ đế bao gồm nhân và quả, vượt tam thời. Nhưng thệ nguyện đặc biệt gắn liền với những gì sắp đến, nên thuộc về tương lai.} 212 Chan-jan (T46.171c7-11) nói: {Tứ đế liên quan đến lý. Lý vượt ba thời, bốn lời nguyện là sự hứa hẹn, và hứa hẹn thì thuộc về tương lai.} 213 Mana-indriya (Ý căn), căn thứ sáu trong lục căn, là chỗ của ý thức và tư tưởng. Trong Hoa văn có thêm nghĩa là ‘dụng ý’ hoặc ‘ý chí’, là nghĩa có thể giải thích [lý do] về sự đồng hóa của Trí Khải về ý thức và phát nguyện. Chan-jan (T46.171c18-21) ghi chú: {Tứ đế thâm nhập ba hoạt dụng [thân, khẩu, và ý], và ba hoạt dụng nầy qua lại thường xuyên trong sáu căn. Vì khi phát nguyện thì không luôn cần đến thân và khẩu, nên có thể chỉ nói đến ý. Tuy nhiên, chỗ nầy chỉ mô tả một cách tổng quát. Nếu hành giả muốn lập luận chi tiết thì phát nguyện liên quan đến cả ba. Ý quy về đối tượng hoặc chỗ hướng đến; khẩu phát ra lời; và thân tỏ bày những dáng vẻ cung kính.} 214 Chan-jan (T46.171c28-172a2) nói: {Vấn: ‘Trước kia ông giải thích [về sự phát tâm giác ngộ qua] mười loạt thứ lớp. Tại sao bây giờ ông chỉ nói đến tứ đế?’. Ðáp: ‘Tứ đế diễn tả [phối cảnh] phổ quát; mười loạt thứ lớp là [phối cảnh] biệt thù. Vì lý do nầy, khi giải thích mười đề mục, [tứ đế] được đặt chỗ tiên quyết. Nếu bất cứ mục nào trong mười đề mục nầy thiếu [cái nhìn] về Lý (li) và Sự (shih) thì không khác gì ma thuyết. Vì lẽ nầy, một sự phổ cập được đưa ra cho tất cả mười đề mục qua sự tham chiếu biệt thù đối với ý nghĩa của tứ đế’.} 215 Sinh, dị, và diệt. Như đã nói ở phần trên, trụ, pháp thứ hai bị lướt qua. 216 Theo Chan-jan (T46.172a21) đối với đoạn văn nầy, xuất xứ từ T46a 17 nên đọc đúng lại như sau: ‘thành Gandharvas (Càn Thát Bà).’. Chúng giống như ảo giác, khi nhìn từ xa tương tự như thành phố với những ngọn tháp. 217 Một trong những tỷ dụ phổ thông tìm thấy trong Samykukta-gama (T2.48b) cũng như trong Pancavimsati ( (T8.217a). 218 Ðó là y báo (i-pao) tức quả báo xác định môi trường chung quanh khác với quả báo xác định chủ thể hoặc ngã. 219 Từ kinh Niết Bàn (T12.742c-743a) khi bốn yếu tố tạo thành thân căn sánh với bốn loài rắn độc nhốt trong giỏ. 220 Ðoạn kinh Niết Bàn, T12.781c, với bổ túc. Chan-jan (T46.172b7-8) luận: {Bốn núi mô tả bốn yếu tố. Bốn hướng mô tả sinh, già, bệnh, chết.} 221 Những cái thấy điên đảo là thấy thường, lạc, ngã, và tịnh ở những cõi không có [những phẩm tánh nầy]. 222 Chan-jan (T46.172b9-11) nói: {‘Hướng đi lên diệt trừ những cái thấy điên đảo’ chỉ cho nhân (hoặc sinh) khổ. ‘Lối đi qua vượt biển trầm luân’ chỉ cho chế trừ được [chính] sự khổ. Trong sự biện phân ảo vọng, hành giả phải bắt đầu với thô và tiến dần về tế. Vì vậy nên gọi là ‘trừ diệt theo đường hướng thượng’.} Vì khổ diệt không liên quan đến tiến trình tương đối, nên gọi là ‘diệt đường ngang’. 223 Kinh Niết Bàn (T12.693b). Bản kinh tiếp tục nói rằng thấy được tứ đế và chấm dứt sự vây bủa trong vòng luân hồi. 224 Từ một ẩn dụ nổi tiếng về căn nhà lửa trong phẩm Thí Dụ, kinh Pháp Hoa, T9.14a-b; Hurvitz, pp.68-69. Người cha thấy các con mình ‘mãi mê chơi đùa’ trong khi căn nhà đang chìm trong lửa đỏ, cố gắng dẩn dụ các con đến chỗ an toàn với lời hứa ban cho các thứ xe hươu, xe dê, và xe trâu đang để ở bên ngoài. 225 Theo Chan-jan (T46.172c2) thí dụ nầy lấy từ ‘T’ai-tzu jui-ying pen-ch’i ching’ (Thái Tử Thụy Ũng Bổn Khởi Kinh) (T3.475c). Thái tử Tất Ðạt Ða [lúc còn niên thiếu] khởi lòng thương xót khi nhìn thấy vô số sâu bọ chết dưới luống cày [trong một cánh đồng], bị loài chim mổ ăn vội vã. 226 Từ ‘Mi-lo hsia-sheng ch’eng-fo ching’ (Di Lặc hạ sinh thành Phật kinh) (T14.42b). Một ngôi tháp ngà đã mở ra trước Ngài Di Lặc như một ân sủng đuợc Ngài đưa qua một vị Phạm thiên nữ. Khi nhìn tòa tháp ngà đổ nát vì vị thiên nữ nầy, Ngài liền chứng ngộ được sự suy tàn của muôn vật, và phát nguyện chứng đắc Bồ Ðề. 227 Nói cách khác, hành giả không chịu sự chi phối của bất cứ [nghịch duyên] nào trong mười nghịch duyên đã để ra ngoài trong đề mục thứ nhất của phẩm nầy như những hình tướng phát tâm ‘sai lầm’. Chín sự xác định sai lầm đầu tiên về giá trị hiện hữu của con người, và vì vậy vẫn quẩn quanh trong vòng sinh tử. Giải thoát theo Tiểu Thừa vẫn còn là hữu dư Niết Bàn. 228 Căn và thức (hoặc ngã) là năng sinh, tư tưởng là sở sinh. 229 Một đoạn trong những bài kệ mở đầu trong Trung Luận (T30.2b): {Các pháp không tự sinh, cũng chẳng từ sự bảo hộ của cái khác, chẳng từ cả hai, chẳng từ không duyên cớ. Như vậy, hành giả phải biết chúng không từng sinh}. 230 Ðại Trí Ðộ Luận, T25.102b. 231 T15.39a. 232 Từ T12.682c. Theo bản kinh, người phàm chịu sự chi phối của tứ đế nhưng không hề hiểu biết về chúng. Môn đồ Nhị Thừa hiểu được một phần tứ đế nhưng không nắm bắt được ý nghĩa rốt ráo của tứ đế. Bồ Tát lãnh hội đầy đủ ý nghĩa tối thượng trong tứ đế. 233 Có thể từ kinh Lăng Già, T16.491a, mô tả một đàn nai rối loạn vì khát nước, tưởng lầm sóng nắng là nước. 234 Từ Mahasamghika-Vinaya (Maha Tăng Kỳ Luật) (T22.284a). Ở đây, Devadatta (Ðề Bà Ðạt Ða), trong mưu toan dối gạt tăng đoàn được sánh với chú khỉ đầu đàn nhìn bóng trăng in trong giếng nước dưới một tàng cây. Vì muốn chiếm đoạt bóng trăng, chú khỉ nầy níu nhánh cây trong khi cả đàn khỉ đu theo chiếc đuôi của chú. Chẳng may, nhánh cây gãy, tất cả đều rơi [xuống giếng]. 235 Chan-jan (T46.173b3-5) nói: {Nếu tất cả đều Không, làm thế nào một hành giả xác định được việc hành trì ‘đồng’ [với Không là đúng] và loại bỏ [những cái] ‘bất đồng’ [với Không là sai] bởi vì không hề có cái gọi là ‘không như vậy’ (non-identical) nằm ở ngoài Không. nếu có bất cứ điều gì bị loại bỏ, thì chẳng khác nào chạy vòng quanh hư không để tìm kiếm hư không ở một chỗ khác.} 236 Một ẩn nghĩa lấy từ một ẩn dụ nổi tiếng giữa pháp và chiếc bè, cả hai đều được tạo ra với mục đích duy nhất là đưa người đến được ‘bờ kia’. Ðọc Madhyamagama (Trung A Hàm), T1.764b-c; và kinh Pháp Hoa, T8.748b. 237 Tứ Niệm Trụ và Bát Chánh Ðạo trình bày pháp hành trì thứ nhất và thứ bảy (thất chi) làm thành ba mươi bảy yếu tố giác ngộ. Ở đây ám chỉ tất cả ba mươi bảy phần. 238 Lấy từ Pancavimsati (T8.271b) hoặc Ðại Trí Ðộ Luận, T25.437b. Tu Ðà Hoàn và A La Hán là quả vị thứ nhất và thứ tư trong bốn quả Tiểu Thừa (hai quả kia là Tư Ðà Hàm và A Na Hàm). 239 Chan-jan (T46.173b28-c2) nói: {Pancavimsati, trong chú giải về pháp vô sinh (anutpattika) cho rằng Ðạo đế không gì khác hơn là ba mươi bảy yếu tố giác ngộ- từ căn bổn vô sinh. Sự kiện không có ‘tứ quả’ muốn chỉ rằng Diệt đế thì vốn chưa từng sinh. Câu [khởi đầu], ‘theo sau thí dụ nầy’ trình bày sự quảng diễn của bậc đại sư (Trí Khải) về thí dụ nầy: Vì Ðạo đế và Diệt đế còn không có, thì làm thế nào Khổ đế và Tập đế có thể có được?}. 240 Chan-jan (T46.173c6-8) luận rằng:{[Ðoạn văn] nên được đọc là lòng thương cảm chúng sinh không có bất cứ lý giải rằng chúng sinh không sinh mà sinh.} 241 Khổ có nguyên nhân bên trong (tức bệnh hoạn, phiền não...), và nguyên nhân bên ngoài (tức tội ác, thú dữ, thiên tai...) 242 Chan-jan (T46.173c13) nói: {Ðến đây là [bốn lời nguyện, như được hiểu từ cái thấy của] vô lượng [tứ đế] thuộc Biệt giáo. 243 Chan-jan (T46.173c20-21) nói: {Ðây là tứ đế thuộc Biệt [giáo] bao gồm cả bốn [lối giải thích] về tứ đế, với [hai mặt] ngã và nhân [và tiến trình từ] thủy chí chung đưa đến một [phương thức] tu tập thâm sâu. Bởi vì cái mà hành giả phải học thì quá nhiều, nên gọi là ‘vô lượng’}. 244 Từ phẩm Dasabhumika (Luận Về Thập Ðịa) trong kinh Hoa Nghiêm, T9558c. Kogi (1.316) cũng trích Ðại Trí Ðộ Luận, T25.276b. 245 Chỗ nầy liên quan đến một đoạn kinh Hoa Nghiêm trong phẩm ‘Kệ tán của chư Bồ Tát trên cung Dạ Ma’, T9.465c: {Tâm giống như một họa sĩ đại tài vẽ ra tất cả những cảnh sắc [tụ hội của] năm uẩn. Khắp các cõi thế gian [trong vũ trụ] không một pháp nào mà chẳng từ tâm sinh. Hoặc tâm, hoặc Phật, cả hai không khác. Hoặc Phật, hoặc chúng sinh, cũng đồng như vậy. Tâm, Phật, và chúng sinh- cả ba đều không hề sai biệt. Chư Phật biết rõ vạn pháp đều từ tâm khởi.} 246 Những phiền não từ lối thấy (chien) và ưa thích (ai) tương đương với kiến hoặc và tư hoặc. 247 Chan-jan (T46.174a3-6) nói: {Người họa sĩ tài hoa kia chính mình làm việc của một Bồ Tát. Bàn tay [của họa sĩ] sánh với thể tánh của Bồ Tát trí. Cây cọ vẽ sánh với tâm [lăng xăng] hoặc những trạng thái của tâm [trở thành] đối tượng [quán chiếu]. Hình ảnh là nhân và quả của sáu cõi [luân hồi]. ‘Xóa sạch những dấu tích cũ’ là diệt trừ nhân và quả [trong sáu cõi]. ‘Quét lên một lớp sơn trắng và vẽ những hình ảnh mới’ diễn đạt Ðạo đế và Diệt đế. Lại nữa, tu tập Không sánh với ‘xóa đi những hình bóng cũ’. Quán Giả sánh với việc ‘vẽ nên những đường nét mới’.} 248 Thứ ba và thứ tư, lần lượt từ tứ niệm trụ. Hai cái còn lại (được nói đến ở đây) gồm có thọ niệm và pháp niệm. Chan-jan (T46.174a12-13) nói: {Nếu hành giả muốn nói đầy đủ về Ðạo đế, hành giả nên giải thích tất cả bảy phần [của ba mươi bảy phẩm giác ngộ]. Nhưng ở đây, chỉ có niệm được giải thích, và sáu phần kia chỉ lướt qua.} 249 Một lần nữa, thí dụ ‘hóa thành’ lấy từ kinh Pháp Hoa, T9.26a. Hóa thành sánh với thoát vòng luân hồi của Nhị Thừa, theo Chan-jan (T46.174a13-14) chứng được khi diệt được kiến hoặc và tư hoặc. 250 Chan-jan (T46.174a 15) nói: {Trong trường hợp nầy quán chiếu thì tinh xão, và vì vậy, không đi vòng quanh như lối quán chiếu không thích hợp hoặc thô sơ [thuộc Tạng giáo].} 251 Trong ẩn dụ về ‘hóa thành’ của kinh Pháp Hoa, kho châu ngọc sánh với mục tiêu Bồ Ðề tối thượng-là mục đích của Bồ tát Ðại Thừa. 252 Ðó là Tạng giáo. 253 Nghĩa đen, {[những phiền não đã bị] tiêu diệt [từ cái thấy được đạo] cho đến cái thấy được tánh. Với sự tiêu diệt được cái thấy sai lầm và thấy được thực chất của tứ đế, hành giả chứng được đạo trí và tiến gần đến quả vị thứ nhất trong tứ quả Tiểu Thừa-tức Tu Ðà Hoàn. 254 Tư Ðà Hàm. A Na Hàm, và A La Hán. 255 Ðó là Thông Giáo. 256 Quả vị ‘Darsana-marga’ (Kiến địa), tương đương với Tu Ðà Hoàn. Kiến địa là địa thứ tư trong mười địa thuộc Thông giáo. Phần giải thích dưới dạng Anh ngữ, đọc Chappell, T’ien T’ai Buddhism, pp.119-129; và Hurvitz, Chih-I, pp.260-262. Hệ thống nầy được Thiên Thai Trí Khải phát huy trong hệ thống Thông giáo, dựa vào Pancavimsati, T8.346b, 259c, và Ðại Trí Ðộ Luận, T25.417a. 257 Những quả vị từ địa thứ năm đến địa thứ tám lần lượt trong mười địa thuộc Thông giáo. Ðịa thứ bảy (Dĩ Biện Ðịa) cả hai kiến hoặc và tư hoặc trong những hình tướng hiển lộ căn bản đã bị diệt. Quả vị nầy tương đương với quả vị A La Hán của Tiểu Thừa. Tuy nhiên, vẫn còn những tập khí (vasana), và chỉ diệt được khi chứng đến quả vị thứ tám là Bích Chi Phật địa. Ðịa thứ chín và địa thứ mười tức Bồ tát địa và Phật địa. Như vậy, mười địa của Thông giáo hội họp ba thừa vào một đường ‘chung’. 258 Ðó là Biệt giáo. 259 Ở đây trước hết Bồ Tát đoạn kiến hoặc và tư hoặc, chứng ngộ Không đế, ra khỏi ba cõi luân hồi. 260 Ở đây Bồ Tát, vì nguyện đại bi, dùng phương tiện giả lập từ Không, trở lại luân hồi để độ thoát chúng sinh, đoạn được trần sa hoặc, chứng được Giả đế, có thể đồng thời nhìn thấy Không và Giả. 261 Trong mười hai địa còn lại nầy, Bồ Tát diệt căn bản vô minh và hiển lộ thuần trung đạo. 262 Ðó là Viên giáo. 263 Mười địa thấp nhất trong năm mươi hai quả vị thuộc Viên giáo, tương đương với ‘Tương tự tức’. Ðịa nầy đoạn được kiến hoặc, tư hoặc, trần sa hoặc, và vô minh, từ đó đạt đến chỗ thấy được trung đạo viên minh. 264 Bốn mươi hai quả vị còn lại, hợp với phần chứng và chân như. Ở đây, vô minh dần trừ diệt, trí tuệ trung đạo được rõ ràng. 265 Chan-jan (T46.174b9) giải thích: {Bốn giáo pháp của tứ giáo, nhân với tứ đế.} 266 Kogi (1.322) trích tác phẩm ‘Maha Chỉ Quán phụ hành sưu yếu ký’ (HTC 99.247) của Trạm Nhiên để giữ vững lối giải nghĩa chữ ‘hsin’ ở đây có nghĩa là niệm hoặc sự nhận biết, và chữ ‘fa’ có nghĩa là pháp (dharmas). 267 Chan-jan (T46.174b13-14) nói: {Ở đây, pháp và tâm giả lập sinh phân biệt. Hội nhập pháp tánh là cái gọi là ‘vô pháp và vô niệm’}. 268 Có ý nói đến ẩn dụ về người cùng tử trong kinh Pháp Hoa, T9.17b; Hurvitz, p.88. Ðứa con của ông trưởng lão bỏ nhà ra đi, lưu lạc, quên mất đường về. Sau năm mươi năm lang thang đói khổ, tiếp nhận được gia tài. Chan-jan (T46.174b19-21) nói: {Ðối với lối diễn đạt ‘năm mươi năm lẻ’ chỉ có nghĩa rằng vì quay lưng lại với gia nghiệp, phiền não gia tăng. Sau khi chối bỏ Ðại Thừa, lưu lạc trong năm cõi. Vì cõi A tu la ở giữa cõi ngạ quỷ và súc sanh nên nói là ‘hơn’ [năm mươi năm]}. 269 Chan-jan (T46. 174c5) nói: {Ở đây, [bốn lời] thệ nguyện đưa ra trong [lối nhìn về] vô tác [tứ đế] của Viên giáo. Thể của tứ đế thì không gì khác hơn là tam đế. Vì vậy, tam đế được dùng như những phương tiện tổng quát để biểu thị đối tượng [trên đó] lời thệ nguyện [thành tựu]. ‘Trong khoảnh khắc khởi niệm’ không gì khác hơn những điều đã nói ở [những phần] trên. Nhưng trí tuệ quán chiếu phân biệt [niệm khởi nầy] thì hoàn toàn khác [với trí tuệ trong ba giáo pháp] trước. Ở đây, ‘một khoảnh khắc của niệm’ chính nó đồng với tam đế, và không còn gì để nói về khoảnh khắc khởi niệm nầy là ‘căn bản sai lạc hoặc hiểu biết’ . Hoặc [hành giả nói cảnh hoặc [nói] căn, tất cả những phối cảnh [phát tâm] đều là pháp giới. ‘Pháp giới’ chính thực chỉ là một tên gọi khác của chân như.} 270 Chan-jan (T46.174b8-10) và Kogi (1.325) cả hai đều ghi nhận rằng tất cả các pháp và những yếu tố đóng vai trò nhân duyên trong việc phát tâm giác ngộ đều đã được nói đến ở đây. 271 Chan-jan (T45.174c11-14) nói: {‘Tất cả các duyên sinh’ chỉ cho nhất niệm và một trăm cảnh giới cùng một ngàn như-thị [pháp] ẩn tàng trong đó. Loại duyên sinh nầy không có tự ngã. Không tự ngã nên là ‘Không’. Nhưng vì cùng lúc đồng với ngàn như-thị [pháp] nên được gọi là ‘diệu giả’. Xa hơn nữa, vì đồng với pháp tánh, nên được gọi là ‘diệu trung’.} 272 Chan-jan (T46.174c14-16) nói: {Dù không phải là ba, mà là ba’ diễn đạt cái Giả. ‘Dù là ba, mà chẳng là ba’ diễn đạt cái ‘Không’. Nếu tiếp tục nói ‘chẳng ba, chẳng phải không phải ba’ thì đó là Trung Ðạo. Vì văn bản không có đoạn nầy, tức giản lược.} 273 Chan-jan (T46.174c17-19) nói: {‘Chẳng tụ chẳng tán’ là cùng lúc phủ định [chỗ nầy hiển lộ] trung đạo. ‘Tụ’ chỉ cho Không; ‘tán’ chỉ cho Giả; ‘chẳng không tụ, chẳng không tán’ hoàn toàn phủ định cặp phủ định thứ nhất. Ðó là chẳng khác cùng lúc chiếu soi [cả hai cực đoan hiển thị trung đạo]. Cái thứ nhất tương đương với đồng tịch của cả hai [cực đoan]. Cái sau với đồng chiếu của cả hai [cực đoan]}. 274 Ðó là năng lực phản chiếu rõ ràng của mặt gương. 275 Chan-jan đưa chữ ‘Một’ vào dòng thứ hai ở đây (T46.175a8) . 276 Từ phẩm ‘Kệ tán của chư Bồ tát trên cung Dạ Ma’, kinh Hoa Nghiêm, T9.465c29. Ðọc ghi chú 89 và bài tựa của Kuan-ting (Quán Ðảnh). Những phần nầy trở nên nổi bật trong ‘Tam Pháp của Tôn sư Nam Nhạc [Tuệ Tư]’, là pháp [theo hệ thống Viên giáo của Thiên Thai Tông] tương nhập và tương tức trọn vẹn. Ðọc Swanson, Foundations of T’ien T’ai philosophy, pp.177-199, bản dịch về những luận đề của Thiên Thai Trí Khải trong ‘ Pháp Hoa Huyền Nghĩa’. 277 T15.52b. 278 T14.544c6. 279 ‘Quán Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Pháp Kinh’ (Kuan p’u-hsien p’u-sa hsing fa ching), T9.392c. Kinh ‘Quán Bồ Tát Phổ Hiền’ do ngài Pháp Tú (Dharmamitra) dịch vào đầu thế kỷ thứ năm. Vì sự liên quan với phẩm ‘Phổ Hiền Bồ Tát khuyến pháp’ trong kinh Pháp Hoa nên được phổ thông như chính kinh Pháp Hoa. Chan-jan (T46.175a22-24) nói: {[Danh hiệu của] Ðức Phật Ðại Nhật được dịch là ‘vô ngại’. Thể của phiền não vốn thanh tịnh. Tánh đức Bồ Ðề vốn đã tự đầy đủ. Thân tướng và cảnh giới tương tùy lẩn nhau và có khắp nơi nơi. Chỗ nầy làm sáng tỏ [ý tưởng từ] hai bản kinh đã nói đến [ở phần trên] rằng nguyên lý có sẳn trong tất cả chúng sinh thì cùng khắp.} 280 Theo Muranaka, p.91; và Nitta, p.238. 281 Từ kinh Hoa Nghiêm, T9.409c. 282 Kogi (1.330) và ‘Makashikan inyo tenkyo soran’, p.78, cho thấy xuất xứ của đoạn nầy trích từ kinh Niết Bàn, T12.651c, nhưng không lấy nguyên văn. Chan-jan (T46.175a 26) ghi nhận chỗ liên quan với ‘chân không’ và Pancavimsati và Ðại Trí Ðộ Luận, nhưng không chỉ rõ từ chương nào. 283 Chan-jan (T46.175b1-2) nói: {Bởi vì ‘Không’ chính nó đã gồm thu tất cả tam [đế], nên nói rằng ‘Không đồng với Bất Không’. Vì sao chỉ một mình Không là như vậy. Nó cũng không khác với Giả và Trung đạo. Vậy thì, [bản văn] đưa ra [đoạn văn] về ‘vi trần’ và ‘trung đạo’ [nhằm mục đích trình bày] mỗi [đế] gồm thu tam [đế].} 284 Từ phẩm Bổn Tánh, kinh Hoa Nghiêm, T9.624a và 625a. Cũng thấy trong Ratnagotravibhaga (Bảo tánh luận), T31.827b. 285 Hoặc ‘trong tâm’ (hsin). 286 Kogi (1.331) và ‘Makashikan inyo tenkyo soran’ p.78, ghi nhận ‘Susthita-mati-devaputra-pariprccha’ từ bộ ‘Ratnakuta’ thuộc kinh Ðại Bảo Tích (Pao-chi ching, T12.128a) là nguồn gốc của ẩn dụ nầy. Tuy nhiên, sự liên hệ thì không rõ ràng. 287 Từ Thủ Lăng Nghiêm tam muội kinh (T15.633b). Ở đây nói rằng chư Bồ Tát thấm nhập sâu đậm vào lục độ, mỗi độ tan loãng vào nhau như nhiều loại hương thơm hòa vào nhau nếu được nghiền nát và làm thành một thỏi. 288 Từ lời tựa của chính tác phẩm Maha Chỉ Quán, T46.1c-2a. 289 Nói cách khác, vô lượng. Chan-jan (T46.175.24-25) luận: {Số phiền não 84.000, và Phật thuyết 84.000 pháp dược [để làm bớt khổ]. Ðể chỉ một con số không cùng tận, nên nói 84.000.} 290 ‘Kinh tạng’( Pitaka) Phật pháp. 291 Chan-jan (T46.175c16) nói: {‘Pháp giới của Phật’ là Căn. ‘Pháp giới gặp gỡ’ là Cảnh. ‘Sinh ra pháp giới’ là Thức.} 292 Kogi (1.336): Theo như hoặc là giống, chẳng giống hoặc là không khác. 293 Kogi (1.336): Vui; khổ; không vui, không khổ. 294 Chan-jan (T46.175c13-14) dẩn chứng từ Ðại Trí Ðộ Luận (T25.269a) nói: {Ðà la ni có tuệ tánh. Tam muội có định tánh.} 295 Chan-jan (T46.175b15) hòa nhập chỗ nầy với Ðạo đế. 296 Chan-jan (T46.175c16) hòa nhập chỗ nầy với Diệt đế. 297 Từ kinh Niết Bàn (T12.652a) 298 Chan-jan (T46.175c24-25) nói: {Sự tướng (ssu-hsiang) có nghĩa là tạo nên sự phân biệt trong pháp giới tương nhập và nhất chân nầy, như giữa phàm và thánh, chân và giả, hữu tình và vô tình.} 299 Chan-jan (T46.175c29-176a4) nói: {Trong bốn [thứ bậc giải thích] về bốn lời thệ nguyện, từng thứ bậc nói đến từng ‘khoảnh khắc [phát sinh] tâm’, chỉ là niệm sinh khởi như kết quả giao tiếp giữa căn và cảnh. Với sự phân chia theo Tứ [giáo], giáo pháp thứ nhất và thứ hai đều luận về sự diệt niệm là quả vị cao nhất, mặc dù cũng có những khác biệt tùy [theo đường lối] cạn hoặc sâu. Môn đồ Biệt [giáo lấy chỗ khởi niệm] làm căn bản cho cả hai mê và ngộ. Môn đồ Viên [giáo] biết rằng tâm chính là pháp giới.} 300 Ðó là, Nhị thừa Thanh văn và Duyên giác, giáo lý được nói trong Tạng giáo và Thông giáo. Theo Chan-jan (T46.176a 6-7), cũng như Maha Chỉ Quán phụ hành sưu yếu ký (Moho Chih-kuan fu-hsing sou-yao-chi), HTC 99.248b. Muranaka (p.93), đưa ra một lối giải thích không quá khác biệt. 301 Theo Chan-jan (T46.176a 19-20), và Murakana (p.49) ở đây lấy các số ba và bốn để chỉ cho các tất đàn. Nitta (p.244) lấy các số ba và bốn để chỉ cho tam và tứ giáo hoặc các lối giải thích về những lời thệ nguyện (ngoại trừ Viên giáo). 302 Từ kinh Hoa Nghiêm, T9.461c. Sức thần biến của linh dược ‘phổ khử’ sánh với năng lực của diệu tuệ, có thể đoạn trừ tất cả phiền não. 303 Phẩm chất của ngọc Như-Ý được nói đến trong kinh Hoa Nghiêm, T9.575b. Chan-jan (T46.176a 18-21) nói: {Nhiều tỷ dụ được đưa ra ở đây nhằm mục đích biểu trưng chân tánh. ‘Phương thuốc bí mật’ chỉ cho giáo pháp; phổ khử (agada) là trí tuệ, sữa và đề hồ là thực hành, và Như Ý châu là nguyên lý. Chỗ nầy cũng nói đến khái niệm về tứ tất đàn.} 304 Theo Nitta, p.243. 305 Ý niệm xác định Bồ đề tâm và thực hành pháp Phật như ‘một đại sự nhân duyên (I-ta-shih yin-yuan) [khiến Phật xuất hiện trên thế gian nầy] từ phẩm ‘Phương Tiện’ kinh Pháp Hoa, T9.7a; Hurvitz, p.30. 306 Chan-jan (T46.176b4-6) nói: {‘Một chân lý không sai lầm’ chỉ cho diệu lý (li). ‘Một con đường tuyệt đối thanh tịnh’ chỉ cho diệu trí và diệu hành. ‘Một con đường đưa chúng sinh vượt thoát vòng ràng buộc của luân hồi’ v.v... có nghĩa rằng chúng sinh dùng con đường nầy mà đến với nguyên lý. Chỗ nầy làm rõ nghĩa những diệu quả [của viên đạo], nhưng cũng có ý nói đến ba pháp khác. 307 Chan-jan (T46.176b10-12) nói: {Với tên ‘sư tử’, [chỉ cho] người đã bước vào [Bồ Tát đạo chân chính], và [bắt đầu] thuyết pháp làm lợi ích chúng sinh. Như vậy, ‘tiếng rống của sư tử’ có nghĩa là thuyết diệu pháp tạng [Viên giáo] nầy. Ðó là giáo pháp được thuyết ra từ người đã chứng được quả vị [từ thực hành].} 308 Chan-jan (T46.176b13-14) nói: {Phát huy phương tiện giả lập nhằm mục đích hiển lộ [tột cùng] chân tánh, tìm cầu tăng trưởng đường đạo, và diệt trừ [cảnh giới lầm lạc của chúng] hữu tình, đây là tất cả những đức hạnh [đã nói] về bậc [đại giác] là Phật.} 309 Theo Chan-jan, T46.176b16-18. 310 Chan-jan (T46.176b21-22) nói: {Thể của vô tác nầy là thực tại [đó là chân tướng hoặc thể tánh của các pháp]. Thực tại nầy, chính nó, vô tướng; và cái vô tướng nầy cũng là vô.} 311 Theo Chan-jan, T46.176b23-26. 312 ‘Wen-shu-shih-li wen p’u-t’i ching’ (Văn Thù Sư Lợi vấn Bồ Ðề kinh) do ngài Cưu Ma La Thập dịch, T14.482a, là bản kinh căn bản Thiên Thai Tông tu tập tam muội nói trong đề mục về tứ thiền, hoàn toàn khác với bộ ‘Wen-shu-shih-li wen ching’ (Văn Thù Sư Lợi vấn kinh) (T no.468), do Sanghaphala (Tăng già bà la dịch). 313 Theo Chan-jan (T46.176c15-17) ‘phối hợp’ với đặc tính có nghĩa là ‘thành lập’ đặc tính. 314 Bốn hình tướng hoặc bốn thứ bậc trí tuệ hiểu về nhân và duyên từ kinh Niết Bàn, T12.768c. Chan-jan (T46.177a 1) nói: {Phân định [bốn lối giải thích nầy] theo phương tiện giả và chân, Viên [giáo là chân và] phù hợp với [trí tuệ] ‘tối thượng’}. 315 Chan-jan (T46.177a1-3) nói: {‘chung’ hoặc ‘riêng’ nhìn trên căn bản [đạo] quả. [Thập] Trụ và [Thập] Hạnh thuộc Biệt [giáo] và hai giáo trước là Tạng và Thông giáo là chung. Viên giáo thì riêng biệt.} 316 Chan-jan (T46.177a3-5) nói: {‘Nông cạn và gần kề’ được phân định dựa trên [phương thức] hành trì. Hành trì của hai giáo pháp đầu tiên thì ‘gần’ [bởi vì chỉ đưa đến hóa thành]. Hành trì của Biệt [giáo thì xa vì đến được nơi chôn dấu kho tàng nhưng] vẫn còn ‘đi vòng quanh’ [vì không tiến thẳng vào mục tiêu như Viên giáo].} 317 Chan-jan (T46.177a 23-25) nói: {‘nắm được yếu tính của phương tiện giả lập’ có nghĩa là tránh không vướng mắc vào [giáo] pháp phương tiện mà tưởng đó là chân. Biết phương tiện là công dụng, và [biết rằng] ngoài phương tiện không có chân [nào khác]-đây gọi là biết chân.} Kogi (1.350) giải thích rằng: {‘nhận ra được Giả’ có nghĩa là dùng phương tiện thiện xảo như vậy để phù hợp với thế gian phàm tình, trong khi ‘biết chân’ có nghĩa là nhận biết được rằng cõi thế tục chính nó không ngoài hoạt dụng vi diệu của pháp tánh.} 318 Chan-jan (T46.177a 26-27) nói: {Gieo mầm mống tâm giác ngộ trên nền tảng chân thực, tất cả chư Phật được sinh ra. Ðây gọi là ‘hạt giống Phật’.} 319 Ðọc Ðại Trí Ðộ Luận, T25.298b. Chan-jan (T46.177b14-15) nói: {Tánh giác của chư Phật lấy đại bi làm thể, và như vậy, từ đại bi mà có.} 320 Bhumea lacena. Ðược nói đến trong kinh Hoa Nghiêm, T9.779b. 321 Theo phái Nhất Thiết Hữu (Sarvastivadin) thuộc Tiểu Thừa, thọ mạng nầy là chất liệu của nghiệp giúp duy trì mạch sống và ý thức trong thân khi còn sống. 322 Ðọc Ðại Trí Ðộ Luận, 25.609c. Từ truyền thống 32 tướng của Chuyển Luân Vương (cakravartin) hoặc vị vua cai quản bốn phương. 323 Từ Ðại Trí Ðộ Luận, T25.267a. 324 Từ kinh Hoa Nghiêm, T9.778c. Như sợi dây đàn bền chắc đến độ lấn át âm thanh của tất cả những dây đàn khác, như tâm giác ngộ viên diệu nầy vượt qua tất cả những [tâm] khác. 325 Cùng chỗ., T9.778c. Sữa sư tử, khi pha vào bình chứa sữa bò, sữa dê, sữa cừu, sẽ khiến cho [mùi vị] các loại sữa kia mất đi. 326 Chan-jan (T46.177c4) nói: {Cầm trên tay chiếc búa nhất thiết trí, có thể phá tan đỉnh núi [dựng lên từ] những lối nhìn sai lạc.} 327 Từ (Ta-chuang-yen ch’ang-che wen fo na-luo-yen li ching), T14.853a. Vị tạo hóa theo truyền thống Ấn Ðộ, thường đồng hóa với Phạm Thiên. Chan-jan (T46.177c4-5) nói: {Chiếc tên của vị trời Na La Diên có thể bắn xuyên qua một vành sắt, như lòng bi vô điều kiện của Bồ Tát có thể phá vỡ tất cả.} 328 Cách nói nầy có nghĩa là một tỷ. Kinh dùng chữ đại địa trong khi Maha Chỉ Quán dùng chữ đại thiên, vì vậy, theo kinh chúng ta nên đọc là ‘trong đại địa’ thay vì ‘trong vũ trụ’. 329 Gồm có thức ăn, quần áo, hương thơm, và những vật dụng cần thiết cho một tăng sĩ. 330 Kinh có thêm đoạn: ‘không đắc được quả A la hán’. 331 Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, và A la hán và từng thứ bậc phân chia từ sơ đến viên. 332 Theo sự hiệu đính của Dr. Donner trong luận đề của ông, và theo Muranaka, p. 98. 333 Chỗ trích dẩn nầy trong Maha Chỉ Quán liên hệ đến đức hạnh của vị tăng sĩ Ðại thừa không giữ giới luật, không thấy trong bản kinh hoặc trong những chú giải của Trạm Nhiên (Chan-jan) (T46.177c14). 334 Trích từ Ratna-rasi Sutra trong tập Ratnakuta (Ðại Bảo Tích), T11.640a-b. 335 Năm trọng tội là: giết cha, giết mẹ, giết vị A la hán, làm thân Phật chảy máu, và phá hoại sự hòa hợp của tăng đoàn. 336 Ba trong mười ác nghiệp đầu tiên thuộc thân, bốn ác nghiệp kế tiếp thuộc khẩu, và ba ác nghiệp sau cùng thuộc ý. 337 Trích từ ‘Như Lai mật tạng kinh’ (Ju-lai mi tsang ching), T17.844c-845a. 338 Ðó là bốn lối giải thích về bốn lời phát nguyện dựa vào các thứ bậc của tứ đế hoặc tứ giáo. 339 Từ kinh Niết Bàn, T12.727c-128a. Cây thầu dầu và cây trầm hương thường được dùng để ví với phiền não và Bồ Ðề. 340 Chữ ‘Tức’ đặc biệt chỉ cho những ngạn ngữ trong kinh điển như phiền não ‘tức’ giác ngộ hoặc chúng sinh ‘tức’ Niết Bàn (Tư Ích Phạm Thiên Sở Vấn Kinh, T15.52b0 và Duy Ma Cật Kinh, T14.549a, 550c-551c), Thiên Thai Trí Khải sử dụng thường xuyên cả hai kinh nầy để xiển dương lý Lục Tức trong Viên giáo. Ðọc Chih-I, San kuan I, (Trí Khải, Tam Quán Nghĩa), HTC99.98b. Thiên Thai Tông vào những giai đoạn cuối đời Ðường và Tống, những luận cứ khả dĩ bao quanh ý nghĩa xác lập của chữ ‘tức’ và chữ ‘bao gồm’, ý niệm về ‘tức’ thường được nhắc đến trong [câu nói làm] biểu tượng của Thiên Thai Tông là ‘ba ngàn thế giới bao gồm trong một niệm’ hoặc ‘nhất niệm tức Không, tức Giả, và tức Trung Ðạo’. Hạnh Mãn (Hsing-Man) nói trong tác phẩm ‘Lục Tức Nghĩa’ (Liu-chi i, HTC100.805a) như sau: {Trong nhất niệm hành giả có thể quán vẹn toàn tam đế hơn là một, là một, hơn là ba. Nhân và quả [vốn đã] đầy đủ. Chữ ‘Tức’ nên được hiểu như trên.} Ðọc những lập luận nổi tiếng của Tri Lễ (Chih-li) trong tác phẩm ‘Thập bất nhị môn chỉ yếu sao’ (Shih-pu-erh men chih-yao ch’ao), T46.707a 21-b4, 710a 16-b8), và những tư liệu liên quan đến cuộc tranh cãi giữa hai phái Sơn Gia và Sơn Ngoại về Thiên Thai Tông. Trạm Nhiên (Chan-jan), T46.178c13-15, nói: {Có những giảng sư trên thế giới ngày nay đều nhìn sơ trụ là quả vị Bồ tát. Ðiều nầy là vì họ không thấu hiểu được Lục Tức. Nếu đó là cách [thuyết giảng] cho thính chúng, thì những người tu tập thiền một cách mê muội còn đi về đâu nữa? } Luận về Lục Tức theo truyền thống Thiên Thai, và những đề tài liên quan đặc biệt đến cuồng giáo hoặc cuồng thiền, đọc Donner, Sudden and Gradual Intimately Conjoined, pp.201-226. 341 Chan-jan (T46.178c13-15) nói: {‘Trước’ có nghĩa là Lý [tức]. ‘Sau’ có nghĩa là Cứu Cánh [tức]. Câu hỏi [có ý] hỏi rằng lúc phát tâm giác ngộ có thể ‘hiển chân’ qua lý hoặc chỉ được gọi là ‘hiển chân’ khi đạt đến chỗ rốt ráo [giác ngộ]}. 342 Từ Pacavimsati hoặc Ðại Trí Ðộ Luận, T25.584c-585c. Ánh sáng giác ngộ không thể ở bên ngoài tia sáng khi ngọn nến được thắp lên hoặc bên ngoài đóm lửa tàn trên đầu ngọn đuốc; ở cả hai mà cũng chẳng cùng thời. Chan-jan (T46.179a4-7) nói: {Trên nguyên lý nền tảng không có đường phân chia giữa điểm đầu tiên và cuối cùng. Nhưng trên những khác biệt của sự tướng, đường phân chia được dựng lập trên tiến trình của sáu thứ lớp. Hợp lại cái dụng của hai chữ ‘lục’ và ‘tức’ đưa ra ý tưởng rằng, qua [phương thức] tu trì của Viên giáo, ngay từ khoảnh khắc phát tâm giác ngộ, hành giả chẳng hoàn toàn đồng với lý mà cũng chẳng mảy may rời lý.} 343 Chan-jan (T46.179a13-17) nói: {Ðại Sư có tín tâm rằng [giác ngộ] đã sẳn đủ đầy trong niệm đầu tiên nên không làm hao hớt đi [giáo pháp của Viên] giáo, nói rằng trường hợp nầy không phải vậy. Ðại Sư biết rằng khi chân trí phát huy đến tột đỉnh, thì [đạo] được tròn đầy. Vì vậy, đại sư không lo ngại rằng mình sẽ không có [chỗ đứng của thánh nhân]. Về mặt nầy, ‘thủy và chung cả hai đều đúng’. Nói rằng chỉ có Phật mới chứng đắc rốt ráo, và người phàm thì không có phần, là [một lối nói] sai lầm ở chỗ sau cuối. Nói rằng người phàm đã sẳn tương ưng với nguyên lý, và vì vậy nên chính họ đồng với chư Phật, là [một lối nói] sai lầm ở chỗ khởi đầu. Ðể tránh những sai lạc như trên đối với thủy và chung [của đạo viên mãn], hành giả nên quen thuộc với Lục Tức.} 344 Cũng gọi là ‘Phần chân tức’. 345 Chan-jan (T46.179a 19-21) nói: {Những hành giả hành thiền một cách mê muội hầu hết [sa vào] tâm kiêu mạn. [Các nhà phân tích] kinh văn có ý muốn dành riêng [đạo quả] cho các bậc [thánh] cao trọng. Cả hai [lầm lỗi] đều từ lối giải thích [khái niệm] về ‘Tức’ mà không hiểu rõ Lục Tức.} 346 Tsang, từ chữ garbha trong Phạn văn, cũng có nghĩa là ‘nơi chứa đựng’ hoặc ‘kho tàng’. Trong các tác phẩm Phật giáo Trung Hoa quan trọng vào thời Trung cổ như ‘Khởi Tín Luận’ (T no. 1666), chữ ‘Như Lai Tạng’ có nghĩa là thực tại như thị hằng hữu ‘chứa’ trong sự che phủ dưới những sai lạc bất định từ sự tướng. 347 Chan-jan (T46.179b1-4) nói: {Ðối với sự giải thích về Như Lai tạng qua tam đế, [nói rằng] tất cả chúng sinh đều có đủ Như Lai Tạng cũng như tam đế. Như đã thuyết ở phần trên trong phần [giải thích] về tứ hoằng thệ nguyện và tứ đế từ cái nhìn của Viên giáo, nguyên lý nầy đã được nói tự bao giờ, nhưng chúng sinh không được nghe thấy. Với tánh đức nầy thì không hề có khoảng cách ngăn nào [giữa chúng sinh và] chư Phật.} 348 Chan-jan làm việc chơi chữ ở đây. Lấy câu ‘trong đời sống thường nhật ’ (hoặc hành xử hằng ngày) họ vẫn không nhận ra nó’ và đọc ngược lại, tôn giả giải thích câu trên có nghĩa là ‘thường hưởng ánh tuệ nhật mà không hề hay biết’. Chan-jan (T46.179b7-9) nói: {Vì có nguyên lý có vòng sinh tử. Sống và chết thuộc vào lý. Nhưng vì con người không hiểu rằng chính sống và chết đồng với lý, [bản văn] nói: ‘con người [thường xuyên] thọ dụng ánh sáng của mặt trời nhưng không hề biết’.Như người thế gian sử dụng ánh nắng mặt trời mà không cảm nhận món nợ với mặt trời.} 349 Chan-jan (T46.179b9-10) nói: {Vì con người chưa bao giờ được nghe và thấy, nên vẫn không biết rằng lý tánh trong tam đế đầy đủ nơi con người. Vì vậy nên con người không nhận biết được rằng pháp Phật có mặt khắp nơi.} 350 Chan-jan (T46.12-14) nói: {Mặc dù loài hươu hoặc dê thấy [bốn hướng chính], chúng vẫn không biết được phương hướng của chúng có nghĩa gì. Như vậy, hành giả nên biết rằng [người] phàm và [môn đồ] Tiểu [thừa] không có cái thấy sâu dày về hướng chính và hướng phụ [đối với thực tại]. Cái chân thực trong thực tại là hướng chính. [Sự phơi trải] của phương tiện giả lập là hướng phụ.} 351 Chan-jan (T46.179b14-16) nói: {Nghe được giáo pháp, hành giả có được kiến thức. Ðó là hành giả biết được nguyên lý của thực tại nói ở phần trên. Nếu hành giả không nghe đến tên, thì chừng nào mới hiểu được [pháp]? Con người trong thế giới ngày nay chối bỏ giáo pháp mà chỉ ưa thích quán chiếu về lý (li-kuan) thì thật là quá đổi sai lầm, quá đổi sai lầm!.} 352 Từ cái Tức thứ hai, Thiên Thai Trí Khải (hoặc Quán Ðảnh) viết xuống thêm một chữ ‘Tâm’ trong hai dấu ngoặc kép, ‘tâm giác ngộ’. Mặc dù sự đổi khác dường như rất ý nghĩa, nhưng cả Trạm Nhiên và những nhà chú giải khác không ghi nhận chỗ nầy. Có thể rằng đoạn văn trên được đọc cùng cách đọc đoạn nói về cái Tức thứ nhất- chân tâm giác ngộ ở thứ bậc Lý Tức.} 353 Từ kinh Niết Bàn, T12.618b. Trong bản kinh ẩn dụ nầy được dùng để làm sáng tỏ một ẩn dụ khác- đó là một người thầy thuốc vụng về dùng vị thuốc mạnh một cách sai lầm để chữa tất cả mọi căn bệnh. Có người được lành, nhiều người khác bị hại; nhưng người thầy thuốc nầy vẫn ngu muội tin vào phương pháp chữa bệnh của mình. Cả hai ẩn dụ được đưa vào cuối phẩm trong phần nói về tứ thiền (Tu Ðại Hành) tỷ dụ cho những vị thiền sư vụng về, là những người đã lên tiếng chỉ trích phương tiện hành trì thiết thực trong lãnh vực tôn giáo do cái hiểu sai lạc của họ về giáo lý phiền não tức Bồ Ðề. Chan-jan (T46.179b17- 18) nói: Chỗ khởi đầu [ở đây] với mục đích tựu thành cái thượng và chối bỏ cái hạ, [bản văn nhấn mạnh rằng] hành [pháp] thì vẫn hơn là chỉ thính [pháp]. Yếu chỉ của việc nghe pháp nằm trong việc thực hành, nhưng không phải chỉ biết lập lại trên miệng lưỡi trong những buổi lạm bàn [với kẻ khác]}. 354 Chan-jan (T46.179b24-27) nói: {[Ðoạn văn] từ ‘Ðiều thiết yếu’ nhắc lại sự tán tụng [đã nói trước]. ‘Quán tâm cần phải rõ ràng và thâm sâu’ nhấn mạnh rằng cái hiểu trước hết phải được dựng lập trên lý, và [điều nầy quay sang] làm chỗ sinh khởi của hành. ‘Lý và tuệ trong tương hợp’ minh định rằng trước tiên hành phải được dựng lập tương ưng với lý, và [điều nầy, quay sang] phát khởi sự hiểu biết. Như vậy, thấy rõ tâm và lý hoạt dụng trong sự đáp ứng lẩn nhau. Trong [phương pháp] tu tập, hành giả nương vào lý mà quán tâm. Trong lý thuyết, giáo pháp căn cứ trên thực hành.} 355 Hua-shou ching, (Hoa Thủ Kinh) T16.140b. 356 Ðại Trí Ðộ Luận, T25.101b. Thực ra có đến sáu cặp trong năm dòng. Bản văn đọc là: {(1) người có sẳn trí tuệ nhưng chưa nghe nhiều về pháp thì không biết được chân lý: giống như ở trong nơi đầy bóng tối, [dù có] cặp mắt lành mạnh nhưng cũng chẳng thể nhìn thấy được gì. (2) Người không biết được chân lý nếu nghe nhiều pháp nhưng lại thiếu trí tuệ: giống như ở trong vùng ánh sáng của một ngọn đèn nhưng lại không có mắt. (3) Người nghe được pháp và có trí tuệ sắc bén thích ứng trong việc tiếp nhận pháp. (4) Nhưng người chẳng nghe pháp cũng chẳng có được trí tuệ, chúng ta gọi đó là một con bò trong thể xác con người.} Chan-jan (T46.179c11-12) nói: {Khi ‘nghe [pháp] phát sinh trí tuệ thì đủ’ để hành giả hiểu được nguyên lý tam đế.} 357 Từ kinh Kim Cang (T8.750c). Ðoạn kinh nói rằng: {Tu Bồ Ðề! Nếu tâm của Bồ Tát trụ nơi pháp mà hành việc bố thí, thì cũng như người vào chỗ tối chẳng nhìn thấy chi cả. Nếu tâm của Bồ Tát chẳng trụ nơi pháp mà hành việc bố thí thì như người có mắt dưới ánh sáng mặt trời liền thấy đủ các sắc tướng. } 358 T15.633c-634a. Ở đây Ðức Phật so sánh việc tu trì đến Thủ Lăng Nghiêm tam muội với việc thực tập bắn tên. Chỉ như trong [việc bắn tên], người xạ thủ chuyên chú bắt đầu nhắm vào những tiêu điểm lớn, dần dần thu nhỏ kích thước của tiêu điểm nhỏ chỉ bằng một phần trăm của sợi tóc; cũng như trong phương pháp tu trì, hành giả khởi công qua những tu tập căn bản, và dần dần tiến gần đến chỗ sâu xa. Những tu tập ở bước đầu của hành giả có thể không ‘phù hợp’ với chân như, nhưng dần dần hành giả sẽ thâm nhập đến chỗ nầy. Chan-jan (T46.179c27) nói: {[Thiên Thai Trí Khải] đưa vào một sự tương tự nhưng không lấy phương pháp từ trong kinh, [là cái thuộc Biệt giáo]. Như vậy, hành giả Viên giáo quán chiếu [theo] đốn pháp. Người bắn cung từ những lằn tên đầu tiên [đã nhắm vào] những tiêu điểm lớn. Tài nghệ của người nầy càng lúc càng khá hơn và người ấy có thể đến gần [tiêu điểm] nhưng mục tiêu chính nó vẫn y chỗ cũ. Ðoạn văn nầy biểu thị Viên giáo.} 359 Từ phẩm ‘Công đức Pháp sư’ trong kinh Pháp Hoa, (T9.50a; Hurvitz, p.276), công đức của sáu căn thanh tịnh (Tương Tự Tức) được diễn tả chi tiết trong phẩm kinh nầy. Chan-jan (T46.180a 12-16) nói: {[Trí tuệ của hành giả] phù hợp và mang theo sự tương tự với [trí tuệ tròn đầy của] thực tại nên ‘trực nghiệm chỗ không đối lập’. [Bản văn] chỉ nói rằng ‘tất cả tâm niệm của hành giả trở nên phù hợp với cái được thuyết trong những bản kinh từ chư Phật trong quá khứ’, cho nên hành giả chưa thể nói rằng cái mà hành giả thuyết chính là một bản kinh. Nếu là trường hợp của những người [đạt đến] phần-chứng-tức tự cho mình là Phật và [trực nhận] tám phẩm hạnh [đưa đến Bồ Ðề], tương tự như những tỷ dụ được nói trong kinh Duy Ma Cật, ngay cả một người chuyển bánh xe pháp thì vẫn được biết như Bồ Tát hạnh. Phần sau [nầy] là những hạnh có đặc tính của Bồ Tát sơ trụ.} 360 Sự thanh tịnh lục căn được thuyết trong phẩm ‘Pháp Sư Công Ðức’, kinh Pháp Hoa, T9.47c-50b. Lục căn thanh tịnh và tương-tự-tức tương đương với quả vị Thập Tín trong 52 quả vị thuộc Viên giáo. 361 Hành giả ở thứ bậc nầy diệt kiến hoặc (do phân biệt đạo lý mà khởi lên như thân kiến, biên kiến...) và tư hoặc (do tham, sân, si, mạn mà khởi lên) cũng như trần sa hoặc (do trí tuệ chưa viên mãn của Bồ Tát mà sinh ra chướng ngại trong việc hóa đạo), nhưng chỉ diệt được căn bản vô minh. Như vậy họ đạt đến chỗ tương tự như chứng ngộ lý Trung Ðạo, nhưng vẫn chưa vào được chỗ tinh ròng của Trung Ðạo. 362 Chỗ Tức nầy vào quả vị thứ 41 trong 52 quả vị Viên giáo. Chỉ có quả vị Bồ Ðề (Diệu giác) là không tính, vì đến cái Tức thứ sáu- Cứu Cánh Tức. Trong từng quả vị trong 41 quả vị nầy, một phần vô minh bị diệt và một phần trí tuệ trung đạo được khai mở. Như vậy, viên tuệ tiếp thu được trung đạo hoặc ‘chân [như]’ càng sâu đậm trong ‘Phần Chứng’}. Chan-jan (T46.180a21-23) nói: {Ở quả sơ [trụ] hành giả diệt một phần [vô minh] và nhận ra tam tánh đức Bồ Ðề. Hành giả mở kho báu tam tánh đức Bồ Ðề và lộ bày sự tăng trưởng của chân lý. Khi hành giả tiến dần về Ðẳng giác, [những tánh đức nầy] càng trở nên sâu thẳm và siêu việt. Ðây là tiệm tiến của hành giả Viên giáo.} 363 Từ Anh Lạc Kinh, T24.1012c. Sáu vị chuyển luân vương với những luân xa khác nhau. Họ được nhận ra như thập tín, thập trụ, thập hạnh, thập địa, và quả giải thoát. Luân xa bằng đồng chỉ cho thập trụ. 364 Quả vị sơ trụ, nơi khởi sự diệt vô minh, và khởi sự vào được trung đạo. 365 Ðẳng giác (Teng-chueh), quả vị thứ 51, trước khi viên mãn Bồ Ðề. 366 Tỷ dụ trong kinh Niết Bàn, T12.724b. 367 Ðây là tám giai đoạn truyền thống đối với thọ mạng của một vị Phật (1) Từ cung trời Ðâu Suất giáng hạ, (2) Nhập thai, (3) Trụ thai, (4) Xuất thai, (5) Xuất gia, (6) Thành đạo (đắc giải thoát dưới cội Bồ Ðề), (7) Chuyển pháp luân, (8) Nhập Niết Bàn. Theo Thiên Thai [Tứ Giáo Nghi] thì bỏ qua số (3) và đưa ‘hàng ma’ vào giữa số (5) và số (6). 368 Phẩm Phổ Môn (Samatamukha) trong kinh Pháp Hoa diễn tả sức thần biến của Ðức Quán Thế Âm qua 32 tướng để đáp ứng nhu cầu phổ độ chúng sinh. 369 Dha là mẫu tự cuối trong 42 mẫu tự trong Phạn văn. Trên căn bản lý thuyết trong chương Tứ Niệm Trụ trong Ðại Trí Ðộ Luận (T25. 407c), ngài Huệ Tư (hui-ssu) sánh 42 mẫu tự nầy với 42 quả vị thành tựu đường đạo từ thập trụ cho đến Diệu giác. Như vậy, mẫu tự a thứ nhất diễn đạt sự chứng ngộ đầu tiên trí tuệ trung đạo hoặc tánh vô sinh của các pháp. Mẫu tự sau cuối, dha, diễn tả sự thành tựu của trí tuệ nầy vào Phật giới. 370 Tức Ðạo (tao) hoặc giác ngộ. 371 Chan-jan (T46.180b12-14) nói: {Mỗi phần trong lục tức, chữ ‘Bồ Ðề’ hoặc giác ngộ được dùng, các chữ ‘Chỉ và Quán ‘cũng được áp dụng. Những chữ nầy được dùng uyển chuyển thay cho chữ ‘Tức’. Từng mỗi phần trong Lục Tức, [mục] Chỉ Quán được để ở chỗ gần cuối. Như vậy, hành giả nên biết rằng tất cả đều gọi là Chỉ Quán, hoặc từ lý, hoặc từ văn tự, hoặc từ quả vị rốt ráo.} 372 Tỷ dụ từ kinh Niết Bàn, T12.407b. Thiên Thai Trí Khải giới thiệu những đặc thù phù hợp với tiến trình của lục tức. 373 Ðại Trí Ðộ Luận, T25.438a. Năm loại nầy, theo thứ tự hướng thượng, là: Phát tâm Bồ Ðề, Phục tâm Bồ Ðề, Minh tâm Bồ Ðề, Xuất đáo Bồ Ðề, và Vô thượng Bồ Ðề. 374 Thiên Thai Biệt Giáo trình bày một hệ thống 52 quả vị từ kinh Anh Lạc như tiến trình qua tam đế Không, Giả, cả hai đi vào nhau, và Trung. 375 Cùng hệ thống 52 quả vị trong kinh Anh Lạc được nhắc lại theo hệ thống Viên giáo. Như vậy, mặc dù đường đi lên được dùng để mô tả, nó diễn đạt sự minh bạch và sâu sắc sức thấu triệt của hành- tam đế có đầy đủ trong nhất niệm. 376 Theo Chan-jan (T46.180c15-16) Lý Tức bị lướt qua vì hành chưa khởi đầu và niệm giác ngộ vẫn chưa hiển lộ đầy đủ ở giai đoạn nầy. 377 Ðại Trí Ðộ Luận (T25.438a3-5) nói: {Trong biển sinh tử vô cùng tận con người khởi niệm giác ngộ tối thượng. Nghĩa nầy gọi là ‘giác ngộ’ hoặc ‘Bồ Ðề’. Ðó là tương tự như nói quả nằm trong nhân.} Chan-jan (T46.180c15) nói: {Phát tâm giác ngộ ở thời điểm nầy, hành giả chưa thực sự khởi công tu hành. Vì vậy, tương đương với Danh Tự Tức.} 378 Ðại Trí Ðộ Luận (T25.438a 5-6) nói: {Ở đây hành giả trừ phiền não và diệt tâm [ô nhiễm] qua sự tu tập [lục] độ. Chan-jan (T46.180c16) nói: {Trong tâm diệt phiền não nầy, sự diệt trừ [phiền não] cũng chưa hoàn tất. Như vậy, tương đương với Quán Hành Tức.} 379 Ðại Trí Ðộ Luận (T25.438a6-9) nói: {Hành giả hiểu rõ ràng các tướng, cả biệt lẩn thông của các pháp trong quá khứ, hiện tại, và vị lai. Và hành giả chứng ngộ rằng chân tánh của các pháp vốn thanh tịnh.} Chan-jan (T46.180c16) nói: {Với tâm chiếu rạng nầy, hành giả ra khỏi bóng tối. [Chỗ nầy] tương đương với Tương Tự Tức.} 380 Ðại Trí Ðộ Luận (T25.438a 9-12) nói: {Trong trí tuệ viên mãn, hành giả đạt được phương tiện lực, và vì vậy hành giả không bị trí tuệ viên mãn nầy trói buộc. Hành giả biết rõ tất cả phiền não, thấy được chư Phật khắp mười phương, chứng đắc được pháp vô-sinh-pháp-nhẫn (anutpattikadharmaksanti), xa lìa ba cõi, và đến được nhất thiết trí (sarvajna).} Chan-jan (T46.180c16-17) nói: {Ðắc nhất thiết trí tương đương với Phần Chứng Tức.} 381 Ðại Trí Ðộ Luận (T25.438a 13) nói: {Chứng đắc giải thoát tối thượng.} Chan-jan (T46.180c17) nói: {Tối thượng và siêu việt tương đương với Cứu Cánh Tức.} 382 Loại Bồ Ðề thứ ba, thứ tư, và thứ năm theo Ðại Trí Ðộ Luận nên được đề cập đến ở đây, nhưng một cặp vấn đáp khác lại được đưa vào giữa. 383 Chan-jan (T46.180c22) ghi chú: {Trong tất cả các giáo lý, đoạn đặt trước diệt.} 384 Ðó là đạo (tao), có thể đọc là Bồ Ðề hoặc giác ngộ. 385 Ở đây, Shiki (1.388) luận rằng diệt và đoạn cùng áp dụng cho cả hai kiến hoặc và tư hoặc. Theo lối nầy thì diệt kiến và tư hoặc có trước đoạn kiến và tư hoặc. Hai cái hoặc nầy là hai cặp chướng ngại khác nhau được giải quyết với những quả vị khác nhau trên đường đạo. 386 Ở đây, chúng tôi trở lại hàng lớp của năm loại Bồ Ðề hoặc ‘giác ngộ’ từ Ðại Trí Ðộ Luận với 52 quả vị thuộc Viên giáo. 387 Thập Ðịa Kinh Luận (Shih-ti ching lun), T26.175c-176b, do ngài Thế Thân (Vasubandhu) soạn và Bồ Ðề Lưu Chi (Bodhiruci) dịch hơn nửa đầu thế kỷ thứ sáu. Sự kiện nầy phát huy một truyền thống kinh luận quan trọng được biết là Ðịa Luận (Ti-lun). 388 Thập Ðịa Kinh Luận, T26.176b, nói: {Hành giả làm lớn rộng tất cả độ từ độ đầu tiên.} Có chỗ lại nói: { Mỗi địa trong thập địa, chư Bồ Tát tương ưng đầy đủ với tất cả tùy phần pháp làm thuận tiện cho việc giác ngộ.} 389 Từ ẩn dụ ‘hóa thành’ trong kinh Pháp Hoa, T9.26a; Hurvitz, p.148. Theo Chan-jan (T46.181a 7-12) ‘nông cạn’ là vì không thâm nhập trực tiếp vào được Viên giáo; ‘gần’ là vì chỉ quanh quẩn ở hóa thành mà không đi về chỗ chôn dấu kho tàng. 390 Chan-jan (T46.181a 13-14) nói: {‘Xuống’ chỉ cho chín hình tướng trói buộc trong cõi khổ [của con người]. Thoát khổ cho riêng mình gọi là ‘lên’. Cả hai đều [bị loại bỏ] như sai lầm trong mục đích hiển lộ cái chân chính.} 391 Trí Khải (hoặc Quán Ðảnh) bỏ qua phần nói về mười cách phát tâm chân thực ở đây, mặc dù giáo lý tứ đế có thể được hiểu là đã bao gồm chỗ [bỏ qua] nầy. 392 Chan-jan (T46.181a 16-20) nói: {Trong phần nói về bốn lớp tứ đế ở trên, cái hiểu phát sinh khi lấy [giáo lý tứ đế] làm đối tượng. Vì có [những khác biệt giữa mức độ trí tuệ] cao và thấp, thấp bị loại bỏ và cao được dùng để hiển lộ [cách phát tâm] chân chính. Ở đây, [trong phần nói về tứ hoằng thệ nguyện] lời nguyện hành trì phát sinh từ cái hiểu, vì tri thức phải đầy đủ trong hành động. Hơn nữa, vì có những khác biệt qua [hình tướng của chân lý là] đối tượng hiểu biết, những sự loại trừ cũng được áp dụng đối với chính tứ hoằng thệ nguyện. Như vậy, dù rằng có sự phát nguyện hành trì [trong tất cả tứ giáo], lời nguyện hành trì theo suốt ba giáo pháp đầu là sai lầm, và chỉ có lời nguyện đi suốt [Viên giáo] diệu kỳ là đúng. Vì lý do nầy, [bản văn] cũng làm lại việc loại bỏ với lục tức. Vì vậy, [bản văn] nói: ‘ phát triển và khai mở đến chỗ sâu xa và vi diệu’.} 393 Từ Chuang-tzu, cf.Watson, The Complete works of Chang-tzu, p.360: {Hạt châu đáng giá ngàn vàng chỉ có dưới hàm loài Hắc Long dưới đáy cửu trùng.} 394 Tỷ dụ từ kinh Niết Bàn, T12.617c. Những người lấy vô thường, khổ, vô ngã, và bất tịnh [thuộc giáo lý Tiểu Thừa] làm chân lý tối thượng sánh với ‘người bơi lội vui chơi trong ao nước mùa xuân, làm rơi viên ngọc bích xuống đáy nước sâu. Mọi người đều nhào xuống nước để tìm viên ngọc quý báu, tranh nhau nhặt lấy gạch, ngói, cỏ cây, cát, đá mà họ thấy được. Ai cũng cho rằng mình đã được ngọc, cho đến khi lên bờ mới hay rằng mình đã lầm, và chưa được ngọc quý’. 395 Chan-jan (T46.182a 2-5) nói: {Những môn đồ nông cạn ở đời sau không biết được rằng sự lộ bày chân phát tâm chỉ có trong Viên giáo, hoặc [không thấy] tất cả tiến trình làm ra phương tiện để cho thấy rằng [cái chân thực] nằm trong nhất niệm. [Dưới những tình huống như vậy], họ sẽ lấy gì làm mục tiêu phát tâm [Bồ Ðề]? Không có mục tiêu thì họ sẽ phát tâm về đâu?. [Phẩm] phát đại tâm đã nói xong ở đây.} | |||||||||||||||||||||
| |||||||||||||||||||||