[11a21] Trong [phẩm] thứ hai nầy chúng ta khuyến tấn tu tập tứ
tam muội (ssu-chung san-mei) (1) để đi được đầy đủ con
đường Bồ Tát (2). Những ai mong muốn bước lên đường
[Bồ Tát] diệu kỳ sẽ không tiến tới được nếu không
dấn thân vào chỗ thực hành. Nhưng nếu người ấy biết
rõ cách khuấy và lọc [sữa tươi], thì sẽ làm được chất
đề hồ (t’i-hu) [chân giác ngộ] (3). Kinh Pháp Hoa nói: {Ta
lại thấy những người con Phật làm tất cả những nghi thức
tu tập để tìm cầu đường giác ngộ}(4). Phương pháp tu
trì thì rất nhiều, nhưng chúng ta tóm kết vào bốn loại:
[tu tập tam muội] (a) thường tọa, (b) thường hành, (c) vừa
thiền tọa vừa thiền hành, và (d) chẳng thiền tọa cũng
chẳng thiền hành (5).
[11A
25] Cái được biểu thị một cách tổng quát đối với chữ
‘tam muội’ (samadhi) là ‘điều phục tâm’, ‘làm chân
chánh tâm’, ‘làm vững chải tâm’ (6). Kinh Ðại Tập nói:
{Khi một người đưa được tâm vào một điểm đến chỗ
yên tịnh không sôi động, đây gọi là ‘tam muội’(samadhi)}(7).
Pháp giới là một vị thế đơn thuần như vậy. Với chánh
quán hành giả có thể trú trong đó không ngăn ngại. Bốn
oai nghi [đi, đứng, nằm ngồi ... ] được dùng như đối tượng
căn bản (alambana) [trong thiền định]. Ðể biết rõ tâm [mình],
hành giả áp dụng những điều nầy nhằm mục đích điều
phục [ý tưởng sai lầm], và đưa cái tâm bướng bỉnh nầy
[về chỗ] chân chánh. Như vậy tất cả bốn phương pháp đều
đươc gọi là ‘tam muội’ (8).
Thường
Tọa Tam Muội
[11a
28] Thứ nhất [trong bốn hình thức tu tập tam muội] là [thực
tập] thiền tọa. Phần nầy xuất phát từ hai tạng kinh là
‘Văn Thù Bát Nhã Kinh’(9) và ‘Văn Thù Vấn Kinh’(10). Ðó
cũng chỉ cho nhất hạnh tam muội (11). Trước hết chúng ta
nói rõ phương pháp (fang-fa), sau đó là khuyến tu (ch’uan-hsiu).
Phương pháp được luận về cái gì nên làm và cái gì không
nên làm đối với thân, cái gì nên nói và khi nào nên nín
lặng đối với khẩu, và sự ứng dụng Chỉ và Quán đối
với ý (12).
Phương
pháp thực hành
[11b2]
Thân. Với tư thế của thân, hành giả nên thường ngồi,
và giảm thiểu việc dời đổi, đứng lên và dựa ngữa.
Có thể tu tập trong từng nhóm (13), nhưng tốt hơn nên tu tập
một mình. Hãy ngồi trong một tịnh thất (ching-shih) (14) hoặc
ngoài trời vắng vẻ xa cách sự ồn náo. Kết một chiếc
ghế dây [để ngồi thiền](15), và không dùng bất cứ loại
nào khác. Hơn 90 ngày ngồi trong một tư thế thiền thích hợp,
hai chân xếp lại, cổ và xương sống ngay thẳng (16). Ðừng
luộm thuộm hoặc ngại ngùng (17), cũng đừng cho phép mình
rủ xuống hoặc dựa vào bất cứ vật gì. Tự nguyện rằng
trong khi ngồi thiền, sẽ không để cho xương sườn chạm
vào thành ghế (18) nghiêng ngữa như một thây chết (19), đứng
dậy, hoặc uể oải. [Lúc] kinh hành (ching-hsing) (20), thọ thực,
và xả thiền thì mới không phải giữ [những quy luật nói
trên] (21). Ngồi quay mặt vuông vắn theo hướng của [vị Phật
mà mình đã chọn](22), và giữ gìn phương thế hành trì nầy
liên tục không một phút giây gián đoạn. Oai nghi được mô
tả ở đây là ngồi và chỉ ngồi mà thôi. Những gì đã
ngăn cấm thì không nên vi phạm Ðừng lừa đảo Phật. Ðừng
phản bội lòng mình. Ðừng gian dối chúng sinh.
[11b9]
Khẩu. Khi nói và lúc lặng thinh (23): Nếu mệt mỏi vì ngồi
quá lâu, hành giả có thể sinh bệnh hoặc không thắng được
cơn buồn ngủ, và những chướng ngại (24) trong, ngoài xâm
nhập vào tâm tưởng đến không xua đuổi chúng đi được,
thì nên niệm danh hiệu Phật, và với lòng vô cùng hổ thẹn,
sám hối, và đặt trọn đời mình vào Phật (25). Công đức
có được từ những thực hành như vậy sánh bằng [công đức]
xưng tụng danh hiệu tất cả chư Phật khắp mười phương.
[11b13]
Việc nầy tác động như thế nào? Khi một người đầy ắp
với vui hoặc buồn (26), nếu người ấy cất tiếng hát hoặc
buông ra một lời than, niềm vui hoặc nổi buồn có thể được
buông thả. Cũng giống như một hành giả. Khi hơi thở vận
chuyển bảy nơi trong cơ thể, những tác động sinh lý [của
khẩu] thành hình, và khi âm thanh phát ra từ hai vành môi, tác
động của miệng hoàn tất (27). Hai việc trên có thể giúp
cho ý, làm thành một nhân cơ cảm đến chư Phật, [và khiến
chư vị] ngó xuống [hành giả] (28). Ðiều nầy tương tự
như một người cố công nhấc lên một vật rất nặng nhưng
không đủ sức mạnh để dời đi được. Nếu người ấy
nhờ một người khác giúp thì có thể làm việc trên một
cách dễ dàng. Ðối với những người tu hành cũng giống
như vậy. Nếu tâm trí họ quá yếu ớt, không xua đuổi nổi
những chướng ngại [của riêng họ], thì bằng cách xưng niệm
danh hiệu và khẩn cầu sự hộ niệm của chư Phật, họ có
thể ngăn chận những nghịch duyên làm hư hoại [đường tu].
[11b18]
Nếu các ông không thấu suốt pháp môn (fa-men) nầy, các ông
nên thỉnh mời những người hiểu và hành bát nhã chỉ dạy
cho. Từ đó các ông có thể vào nhất hạnh tam muội, thấy
được tất cả chư Phật hiện tiền, và vào được cảnh
giới chân thực của chư Bồ Tát.
So
sánh với sự viên tịch, thì ngay cả đọc tụng kinh điển
hoặc phù chú cũng là ồn náo; chuyện của thế gian (29) thì
còn ồn náo bao nhiêu nữa!.
[11b21]
Ý. Thực hành Chỉ và Quán với Ý (30), chỉ ngồi trong tư
thế trang nghiêm và giữ chánh niệm (cheng nien). Dừng tà ý
và bỏ qua những tưởng tượng lôi thôi. Không cho phép tâm
mê trầm đột nhập, và không nắm bắt sau khi nhận biết
chúng (31). Trụ nhất tâm vào pháp giới như đối tượng thiền
quán. (32). Hợp nhất niệm (nien) một cách tròn đầy với
pháp giới. ‘Trụ tâm vào pháp gìới’ là Chỉ, và ‘nhất
niệm với pháp giới’ là Quán (33).
[11b23]
Hãy có được lòng tin rằng mỗi mỗi [pháp] trong vạn pháp
chính nó là pháp Phật (34). Không có trước và không có sau,
không đường phân chia giữa đất và trời. [ Hơn nữa] không
người giác và không người thuyết [pháp]. Nếu đã không
có người giác, cũng không có người thuyết, thì [chân lý
và sự chứng ngộ chân lý] chẳng hiện thực mà cũng chẳng
phải là chẳng hiện thực. Nếu đã không có người giác
thì cũng không có người không-giác Xa lìa hai đối cực nầy,
hành giả trụ nơi không có gì trong đó để trụ (35). Hành
giả an trú trong pháp giới viên tịch, nơi mà tất cả chư
Phật an trú.
[11b27]
Ðừng kinh hoảng khi nghe pháp sâu thẳm nầy!.Vì pháp gìới
nầy cũng được biết là ‘Bồ Ðề’, là ‘cảnh giới
bất tư nghị’, là ‘bát nhã’, hoặc là ‘vô sinh vô diệt’.
Như vậy thì không có hai, không có sự phân chia giữa vạn
pháp và pháp giới. Khi các ông nghe rằng bất nhị và không
ngăn cách, các ông phải dứt đi mối nghi trong tâm các ông.
Người mà có thể quán chiếu như thế đó [thì mới có thể]
quán được mười hình dung của Như Lai (36).
[11c2]
Khi quán Như Lai (37), hành giả không nghĩ đến Như Lai là Như
Lai. Ở đây không có Như Lai là một Như Lai, cũng không có
bất cứ trí tuệ Như Lai mà từ đó có thể biết được
Như Lai. Bởi vì Như Lai và trí tuệ từ đó Như Lai được
biết thì không có tướng nhị nguyên (38). Không có tất cả
tướng động và tướng sinh. Không định vị trong bất cứ
phương hướng mà cũng không rời tất cả phương hướng.
Không bị chi phối bởi ba thời mà cũng không ở ngoài ba thời.
Không mang theo vóc dáng của nhị nguyên cực đoan mà cũng không
đứng tách biệt nhị nguyên cực đoan. Rõ ràng chẳng ô nhiễm
mà cũng chẳng thanh tịnh. Quán Như Lai như vậy thì rất là
ít được (39). Như không gian, không có tì vết. [Quán chiếu
như vậy] chánh niệm tăng trưởng.
[11c8]
[Hành giả nên nghĩ rằng] cái thấy các tướng đại và tiểu
của Phật giống như khi nhìn chiếc bóng của mình in trên
mặt nước trong sáng như gương. Trước hết hành giả thấy
một vị Phật, rồi [vô số] chư Phật khắp mười phương.
Ðó không phải là vì hành giả dùng sức thần thông để
đi đến các nơi để thấy chư Phật. Nhưng vẫn ở tại một
chỗ, thấy được chư Phật, nghe được chư Phật thuyết
pháp, hiểu được ý nghĩa của như-thị (tathata) (40).
[11c11]
Thấy [thân tướng] Như Lai như vậy khiến người khác được
lợi ích, nhưng đừng nắm giữ bất cứ tướng nào của Như
Lai (41). Hoán chuyển tất cả chúng sinh bằng giáo pháp để
đưa về Niết Bàn, nhưng không nắm giữ bất cứ tướng hiển
lộ nào của Niết Bàn. Phơi bày [hai] đại trang nghiêm (42)
khiến tất cả chúng sinh được lợi ích, nhưng không [sinh
tâm] phân biệt bất cứ dấu hiệu nào của các đại trang
nghiêm nầy (43). Vì [thực tại] không có cả hai tướng và
trạng, không được thấy, nghe, hoặc biết như một đối
tượng (44). Với Phật, Ngài không chứng và đắc bất cứ
điều gì (45). Chỗ nầy, thực vậy, thật vi tế. Tại sao?
Bởi vì chính Phật tức là pháp giới (46). Nói rằng pháp
giới chứng đắc pháp giới thì thật là một lời nói vô
nghĩa. Không có chứng và không có đắc.
[11c16]
Quán tướng của chúng sinh như tướng Bồ Ðề, và cõi của
chúng sinh tức cảnh giới Bồ Ðề. Phật giới bất tư nghị,
và cõi hữu tình cũng bất tư nghị như vậy (47). Trú trong
cõi hữu tình cũng như trú trong hư không. Vì tánh đức của
pháp vô trụ và vô tướng [nầy], hành giả trú trong tâm điểm
của bát nhã (48). Nếu hành giả không thấy bất cứ thế
gian pháp thì làm sao mà từ bỏ?. Nếu hành giả không thấy
bất cứ thánh pháp thì làm sao mà chứng đắc (49)?. Luân Hồi
và Niết Bàn, ô nhiễm và thanh tịnh cũng như vậy (50). Không
bỏ không lấy bất cứ điều gì, hành giả chỉ trụ trong
thực tế (bhutakoti). Trong đường lối nầy, hành giả quán
chúng sinh hữu tình như chân pháp giới của chư Phật.
[11c22]
Khi quán các loại phiền não như tham, sân, si, luôn nghĩ rằng
‘đây là những hành (samskara) viên tịnh- hành vô hành. Chúng
không phải là pháp sinh tử, cũng chẳng là pháp Niết Bàn
(51). Tu tập đạo Bồ Tát không bỏ tà kiến cũng chẳng xa
vô vi (wu-wei) (52). Chẳng hành đạo cũng chẳng không hành đạo
(53). Ðây là chỗ gọi là thiện trụ ngay trong phiền não giới.
[11c25]
Khi quán những nghiệp khác nhau, không có nghiệp nào nặng
nề hơn năm ác nghiệp (54). Nhưng chưa [hết], năm ác nghiệp
chính nó đồng với Bồ Ðề. Bồ Ðề và năm ác nghiệp không
có tướng nhị nguyên (55). Không có người thấy, không có
người biết, không có người phân biệt (56). Tướng tội
lỗi của ác nghiệp và tướng của chân như cả hai đều
bất tư nghị, bất hoại, và hoàn toàn không có tự ngã. Tất
cả nghiệp nhân ở ngay trong thực tế. Nó không đến, không
đi, và chẳng thủy, chẳng chung (57). Ðây là ý nghĩa quán
nghiệp như chính nó là dấu ấn của pháp giới.
[12a1]
Dấu ấn của pháp giới ngay cả bốn loài ma (58) cũng không
tiêu diệt được, các ma cũng không làm khuấy động được
(59). Tại sao không? Vì chính các ma cũng là dấu ấn của pháp
giới. Làm cách nào dấu ấn của pháp giới lại có thể tiêu
diệt dấu ấn của pháp giới được?. Nếu các ông phơi trải
ý tưởng nầy đến khắp vạn pháp thì các ông sẽ hiểu
[chân pháp tánh]. Tất cả những gì được nói ra ở đây
đều dựa vào kinh Văn Thù Sư Lợi (60).
Khuyến
khích tu tập
[12a4]
Trong phần khuyến tu, chúng ta ca ngợi công đức thực hành
để khuyến tấn các hành giả. Pháp của pháp giới chính
là chân pháp của Phật, và là dấu ấn của Bồ Tát. Nếu
các ông có thể nghe pháp nầy mà không chấn động hoặc kinh
sợ, thì các ông chính là người, trong nhiều kiếp, đã gieo
trồng gốc công đức khắp trăm ngàn triệu triệu cõi nước
Phật (61). Tương tự như người trưởng giả mất một viên
ngọc quý, sau lại tìm thấy, lòng người ấy đầy ắp niềm
vui. Cũng như vậy, trước khi tứ chúng nghe pháp nầy, họ
kham chịu khổ não. Nhưng khi nghe được pháp, phát tâm tin
hiểu, nên vui mừng (63). Vì thế, phải nên biết rằng những
người như vậy đã từng thấy Phật. Trong quá khứ, họ đã
từng được nghe pháp nầy từ ngài Văn Thù Sư Lợi (64).
[12a9]
Ngài Xá Lợi Phất nói [trong kinh Văn Thù Sư Lợi]: {Người
hiểu thông suốt ý nghĩa giáo lý nầy chúng tôi gọi là Bồ
Tát ma ha tát.} Ngài Di Lặc trả lời: {Người như vậy đến
gần tòa Như Lai, vì chư Phật là những người đã giác ngộ
pháp nầy (65). Vì vậy Ngài Văn Thù nói: {Nghe pháp nầy mà
không rúng động tức thấy được Phật (66). Và Phật nói:
{Người như vậy trụ trong cảnh giới bất thối chuyển (avaivartya),
đầy đủ lục độ, và tương ứng với tất cả pháp Phật
(67).}
[12a13]
Những ai muốn vào được pháp Phật với sự tròn đầy, tướng,
tánh, cách hành xử, tiếng Phật thuyết pháp (68) cũng như
mười lực (69) và vô sở úy (70) thì nên tu tập tam muội.
Với sự tu trì chuyên cần không sai sót, hành giả có thể
bước vào (71). Giống như chắt chiu châu ngọc, càng lau chùi
thì càng sáng (72). Tu tập như vậy, hành giả có được công
đức không thể nghĩ bàn. Nếu một Bồ Tát có thể học nó,
vị nam hoặc nữ ấy có thể sớm giác ngộ. Nếu tỳ khiêu
hoặc tỳ khiêu ni nghe thuyết về pháp thực hành nầy mà không
kinh sợ, họ sẽ theo dấu Phật xa lìa đời sống thế tục.
Nếu cư sĩ nam hoặc cư sĩ nữ nghe mà không kinh ngạc thì
họ thực sự tìm thấy chỗ an trú trong Phật Ðà (73). Những
lợi ích được mô tả ở đây đều lấy từ hai bản kinh
[Văn Thù Sư Lợi].
Thường
Hành Tam Muội
[12a19]
Thứ hai là thường thiền hành (74). Chúng ta khởi đầu với
phương pháp tu tập, và theo sau là phần khuyến tu. Dưới phương
pháp tu tập, chúng ta nói về cái gì nên làm và cái gì không
nên làm đối với thân, cái gì nên nói và khi nào nên im đối
với khẩu, và Chỉ Quán đối với ý.
[12a
20] Giáo pháp nầy xuất xứ từ kinh Bát Chu tam muội (Pratyutpanna-samadhi-sutra)
được dịch nghĩa là ‘chư Phật hiện tiền tam muội’ (75).
Phật hiện tiền có ba yếu nghĩa trong ‘Phật lập’ (76):
thứ nhất là gia trì lực (adhisthana) của Phật, thứ hai là
tam muội lực, và thứ ba là năng lực công đức của hành
giả. Với những [lực] nầy, trong thiền định [hành giả]
có thể thấy được chư Phật hiện tại khắp mười phương
đang đứng trước mặt (77). Hành giả sẽ thấy được chư
Phật khắp mười phương rạng rỡ khắp nơi như người mắt
sáng thấy những vì sao trên màn trời đêm trong lặng. Ðây
là lý do tại sao gọi là Phật hiện tiền tam muội.
[12a25]
Thập Ðịa kinh luận nói trong những bài kệ: {Các cảnh giới
của tam muội nầy có thể phân ra tiểu, trung, và đại. Nên
luận về phẩm chất của chúng (78)}. ‘Cảnh giới’ nói
lên sự kiện rằng, với sự phát sinh những năng lực nầy
(79), tam muội có thể được trong sơ thiền, nhị thiền, tam
thiền, hoặc tứ thiền. Ðó là lý do tại sao danh từ ‘cảnh
giới’ được dùng. [Tam muội phát sinh trong] sơ thiền là
tiểu cảnh, nhị thiền là trung cảnh, tam và tứ thiền là
đại cảnh. Lại nữa, ‘tiểu’ còn có ý đưa ra sự kiện
rằng hành giả trú trong tam muội trong một khoảng thời gian
ngắn. Hoặc được gọi là tiểu bởi vì hành giả chỉ thấy
được một số ít cảnh giới hoặc một vài vị Phật. Trung
và đại cũng [được nhìn] như vậy (80)}.
Phương
pháp tu tập
[12b1]
Thân. Với thân, thường hành là cái được nói đến. Khi
thực hành pháp nầy, tránh giao tiếp với những điều vô
bổ như kẻ ngu muội, họ hàng, thân thuộc (81). Ở một mình
nơi chỗ nhất định, không chờ đợi hoặc mong cầu sự giúp
đỡ từ người khác (82). Hằng ngày khất thực nhưng không
nhận biệt thỉnh (83). Trang nghiêm đạo tràng với những nghi
thức cần thiết như hương thơm, thực phẩm (84), hoa quả
[để cúng dường]. Giữ thân sạch sẽ (85), rời thiền đường
theo [lối đi] bên trái, trở vào bên phải, thay đổi quần
áo tùy thời (86). Chuyên tâm chỉ quanh phạm vi [bàn thờ Phật
A Di Ðà] trong suốt 90 ngày (87). Hành giả nên có một người
thầy có đủ hiểu biết và có kinh nghiệm về những giới
luật trong ngoài để tránh chướng ngại khi tu tập (88). Hãy
đối với vị thầy như người [giúp] hành giả được nghe
đến tam muội nầy như một bậc được cả thế gian cung
kính. Ðừng xem thường hoặc sinh lòng sân hận với thầy,
cũng đừng phê bình chỗ dỡ hay của thầy (89). Hành giả
nên sẳn lòng xé da thịt mình mà cúng dường cho thầy- kể
gì đến những phẩm vật khác. Phục vụ thầy như người
giúp việc nhà, vì nếu các ông sinh tâm đố kỵ, sẽ rất
khó đạt được tam muội mà hành già mong cầu (90). Hành giả
nên có những người bên ngoài lo lắng cho các ông như người
mẹ săn sóc cho con mình và những người bạn đạo như đang
cùng nhau vượt qua một đoạn đường dốc ngược (91). Hãy
đặt mục tiêu và phát nguyện như sau: {Dù cho thịt xương
tôi có tan rã, tôi cũng sẽ tu tập không ngừng nghỉ cho đến
khi tôi đạt được tam muội nầy.}
[12b11]
Hãy làm phát sinh trong hành giả lòng tin lớn rộng mà không
một điều gì có thể khiến [hành giả] vứt bỏ được;
hãy tuôn tràn tất cả công sức mà không một điều gì có
thể ngang bằng được; hãy để cho trí tuệ mà hành giả
có được bao la đến chỗ không một ai có thể thách thức
[hoặc làm hư hoại]; và luôn luôn [tỏ lòng] thành kính đối
với vị thầy của mình (92). Cho đến khi ba tháng trôi qua,
đừng tiếp đãi những [loại] ý tưởng hoặc mong muốn thuộc
thế tục dù cho chúng chỉ thoáng qua bằng khoảng thời gian
búng hai ngón tay. Cho đến khi ba tháng trôi qua, đừng rời
chỗ hoặc nằm xuống (93) cho dù chỉ bằng khoảng thời gian
búng hai ngón tay. Ðến khi ba tháng trôi qua, không ngừng kinh
hành (ching-hsing) trừ những lúc ngồi xuống thọ thực hoặc
khi [đi ra] từ bên trái, và [vào] từ bên phải [để thư giản
thân thể v.v...] (94) . Hãy thuyết giảng kinh nầy đến người
khác mà không mong được quần áo hoặc thức ăn trả công
(95). Những câu kệ trong ‘Thập Ðịa kinh luận’ nói: {[Ðể
được tam muội nầy] hãy làm bạn với người hiền. Hãy
chuyên cần không sơ sót. Hãy làm cho trí tuệ vững vàng, và
sức mạnh của lòng tin không bị chuyển lay hoặc tan vỡ.}(96)
[12b18]
Khẩu. Lúc nói và lúc im: Trong khi thân không dừng kinh hành
trong suốt 90 ngày, miệng không dừng tụng danh hiệu Phật
A Di Ðà, trong suốt 90 ngày tâm luôn niệm [thân tướng công
đức của] Ðức Phật A Di Ðà. Hành giả có thể tụng niệm
cùng lúc hoặc trước niệm sau tụng, hoặc trước tụng sau
niệm, nhưng xưng tán và nhớ tưởng không lúc nào dừng (97).
Công đức xưng tán danh hiệu Phật A Di Ðà sánh bằng công
đức xưng tán danh hiệu chư Phật khắp mười phương. Tuy
nhiên, chỉ chuyên chú vào Ðức Phật A Di Ðà trong sự tu tập
nầy. Quy hướng từng bước, từng lời, từng ý vào Ðức
Phật A Di Ðà.
[12b24]
Ý. Chúng ta luận về Chỉ và Quán đối với ý. Hành giả
nên nhớ nghĩ đến Phật A Di Ðà mười tỉ Phật quốc ở
phương Tây, trên đài báu, dưới cội cây báu, ao nước báu
trên đất báu, ngồi thuyết kinh giữa các Bồ Tát tụ hội
chung quanh (98). Hãy niệm Phật (nien-fo) như vậy liên tục trong
suốt ba tháng (99). Hành giả nghĩ về Ngài như thế nào? Hãy
tâm niệm 32 tướng hảo, từng tướng một, theo chiều ngược,
từ tướng dưới lòng bàn chân có vân xoáy tròn như hình
bánh xe có ngàn nan hoa cho đến ẩn tướng trên đỉnh đầu
của Ngài (100). Sau đó hãy nghĩ đến các tướng theo chiều
thuận, từ ẩn tướng trên đỉnh đầu đến tướng dưới
lòng bàn chân của riêng Phật, và nghĩ đến chính mình: {Tôi
[nguyện] sẽ có được những tướng nầy.}
[12b29]
Hãy nghĩ như vầy: {Có phải rằng tôi thấy Phật bằng tâm
tôi? Có phải rằng tôi thấy Phật bằng thân tôi? Không, Phật
không thể thấy được bằng tâm, cũng không thể thấy được
bằng thân, không có hình tướng của Phật thấy được bằng
tâm, không có hình tướng của Phật thấy được bằng hình
tướng (101).}
[12c3]
Tại vì sao? Nói ‘Tâm’ [thì] Phật vô tâm; nói ‘Tướng’
[thì] Phật vô tướng. Như vậy tam bồ đề (sambodhi) thì không
thể thấy được hoặc đến được qua hình tướng hoặc
qua tâm. Sắc tướng của Phật vốn tịch diệt [và các uẩn
khác cũng vậy] cho đến thức cũng tịch diệt (102). Kẻ ngu
không hiểu được khi Phật thuyết về tánh tịch diệt nầy,
nhưng người trí hiểu rất rõ. Không thể hiểu Bồ Ðề bằng
thân và khẩu, cũng không thể dùng trí mà hiểu được (103).
Tại sao vậy? Bởi vì dù cho trí sâu rộng đến đâu, trí
cũng không thể hiểu được, [chỉ như] khi ngã mong tìm biết
ngã, chắc chắn không thể biết được. Không có gì để
thấy. Vạn pháp vốn rỗng lặng. Hành giả phải tiêu diệt
bất cứ khái niệm về nền móng và xóa bỏ ý tưởng về
một căn cứ !(104).
[12c8]
Giống như khi nằm mộng thấy có được bảy thứ châu báu
khiến cả quyến thuộc đều vui mừng. Khi thức tỉnh nhớ
lại giác mơ, người nầy cố gắng đủ cách nhưng không thể
biết được [cảnh tượng kia] biến mất vào đâu. Hãy niệm
Phật (nien-fo) cùng một thể cách như trên (105). Trở lại,
như câu chuyện người đàn bà phóng đãng tên là Sumana trong
thành Sravasti (106). Nghe danh nàng, một người đàn ông [sống
ở Rajagrha] mơ ước. Một đêm ông nằm mộng thấy cùng nàng
giao hoan, nhưng khi thức dậy và nhớ lại giấc mơ, ông nhận
ra rằng: {Nàng ấy chẳng đến đây, ta cũng chẳng hề đến
gặp. Như vậy, ta chỉ vui thú như cách thức mà ta [mong muốn]
trong mơ.} Ðây là cách mà hành giả nên niệm Phật . Lại
nữa, như một người đói khát đi ngang qua một cái đầm
lớn. Nằm ngủ, người nầy thấy có rất nhiều thức ăn
ngon trong mơ, nhưng khi tỉnh giấc thì bụng vẫn trống rỗng.
Hãy tự nghĩ rằng tất cả pháp chỉ như mơ, các ông phải
thực tập niệm Phật như vậy, luôn luôn tâm niệm về những
điều nầy không dừng nghỉ. Áp dụng cách niệm Phật như
vậy, các ông sẽ được sinh trong cõi nước của Ðức Phật
A Di Ðà (107). Ðây gọi là {Quán tưởng niệm Phật}(108). Lại
nữa, như người để một viên ngọc trên một viên mã não,
cái nầy ảnh hiện sang cái kia. Hoặc, khi một vị tỳ khiêu
thực hành pháp quán xương trắng phát ra ánh sáng: chẳng có
ai là người mang ánh sáng đến mắt vị tỳ khiêu nầy, cũng
chẳng có ánh sáng từ trong đống xương kia. Cái vị ấy nhìn
thấy không gì khác hơn là tác phẩm từ tâm của vị ấy
mà có. Lại nữa, như hình ảnh trên mặt gương không từ
bên ngoài đi vào gương cũng chẳng phải từ bên trong gương
hiện ra. Chúng ta thấy được hình ảnh chỉ vì mặt gương
sáng sủa (109).
[12c19]
Nếu sắc tướng (rupa) của hành giả sạch sẽ thì những
gì người ấy mang theo (110) cũng sạch sẽ. Nếu người ấy
muốn thấy Phật, người ấy sẽ được thấy Phật. Thấy
được Phật, người ấy sẽ thỉnh Phật thuyết pháp. Thỉnh
Phật, người ấy sẽ được đáp ứng, nghe kinh, và có được
an lạc lớn (111).
[12c20]
[Các ông] hãy tự nghĩ (112) Phật từ nơi nào đến [mà tôi
thấy trước [mắt] tôi? [Từ không nơi nào cả. Ngài không
đến đây, và] tôi cũng không đi đâu khác để gặp Ngài.
Bất cứ những gì tôi nghĩ đến, tôi thấy. Ðó là tâm tôi
đã tạo ra Phật. Ðó là chính tâm tôi thấy cái tâm [mà cái
tâm đó] thấy được Phật tâm (113). Tâm hoặc niệm nầy
của Phật là tâm của riêng tôi thấy được Phật. Tâm chẳng
chính nó biết được tâm; tâm chẳng chính nó thấy được
tâm. Khi có niệm trong tâm thì đó là tâm vọng, khi vô niệm
là Niết Bàn. Pháp nầy không thể nói hết được bằng lời
(114), vì [những dụng công như vậy] là tất cả sản phẩm
của tư tưởng. [Vì vậy] ngay cả khi tư tưởng hiện diện,
chúng được hiểu là không và bất hữu.
[12c25]
Kệ nói: {Tâm không biết tâm: cái có tâm không thể thấy
tâm. Khi niệm dấy khởi trong tâm, đây là vọng; khi niệm
vắng bặt, đây là Niết Bàn (115).} Kinh cũng nói: {Phật đắc
giải thoát do tâm (116). Khi tâm không ô nhiễm thì gọi là
‘tịnh’(117). Ngay cả trong năm cõi tươi nhuần, thanh tịnh,
và không bị sắc tướng chi phối (118). Bất cứ ai hiểu được
điều nầy chứng được đại đạo (119).}Ðây gọi là ‘dấu
ấn của Phật’ [trong kinh] (120). Có trong đây [ dấu ấn của
Phật] không còn gì để mong cầu, không còn gì để trói buộc,
không còn gì để săn đuổi, và không còn gì để khởi niệm.
Tất cả hiện hữu [của một đối tượng] đã khô cạn,
và tất cả vọng dục đã khô cạn (121). Như vậy không từ
đâu Phật ấn phát sinh, và không nơi nào Phật ấn tan biến.
Không có một điều gì có thể hoại diệt. Ðây là bản tánh
của đạo, là nền tảng của đạo. Người chấp vào Nhị
thừa (122) không thể có được dấu ấn nầy (123). Còn có
gì nữa bị phá hủy bởi những sự đồi bại của lũ ma
quân!.
[13a
13] ‘Thập Ðịa kinh luận’ giải thích rằng một vị Bồ
Tát vừa phát nguyện tìm cầu giác ngộ viên mãn, trước hết
tưởng niệm 32 tướng hảo của Phật (124). Quán chiếu từng
tướng một, lần lượt qua thể, hành, quả, và dụng (125).
Quán như vậy, vị ấy sẽ đắc được tiểu lực. Kế tiếp
niệm 40 bất cộng pháp của Phật, và từ đó đắc trung lực.
Sau đó niệm Phật là chân như và đắc được đại lực
[trong thực hành]. Ngay cả [trong ba lối niệm Phật], vị ấy
không được vướng mắc vào thân tướng Phật hoặc pháp
thân Phật (126).
[13a6]
‘Thập Ðịa kinh luận nói: {Chẳng trói buộc vào thân tướng
hoặc pháp thân Phật, biết rõ rằng vạn pháp thường tịch,
như hư không (127).}
Khuyến
khích tu tập
[13a7]
Khuyến tu: nếu các ông muốn có được trí tuệ như biển
rộng, đến nổi không một ai có thể làm thầy mình (128),
và nếu các ông muốn, trong khi ngồi ở đây, không dùng thần
thông, có thể thấy được tất cả chư Phật, nghe được
tất cả pháp chư Phật thuyết, và tiếp thu tất cả những
pháp được nghe (129) thì thường-thiền-hành tam-muội là thực
tập giá trị nhất trong tất cả [pháp tu]. Tam muội nầy là
mẹ của chư Phật, là mắt của chư Phật, là cha của chư
Phật. Ðó là người mẹ vô sinh, đại bi. Tất cả Như Lai
được sinh ra từ hai pháp nầy [của cha và mẹ] (130).
[13a12]
Nếu một tỉ thế giới với tất cả cỏ cây đều bị nghiền
nát, và mỗi một hạt bụi trở thành một cõi Phật, nếu
có người làm đầy các cõi Phật nầy với của cải cúng
dường, công đức có được từ việc làm trên hẳn là rất
lớn. Vậy mà vẫn không thể sánh được với công đức có
được khi nghe đến tam muội nầy mà không sinh lòng kinh sợ,
càng ít hơn so với công đức tiếp nhận [pháp nầy] với
lòng tin, gìn giữ, tụng đọc, thuyết giảng cho người khác.
Hoặc còn nhiều hơn thế nữa sánh với công đức khi thực
hành [pháp nầy] với tâm chuyên chú. Giống như một cánh đồng
gián tiếp sản xuất sữa bò. Lợi ích còn sẽ lớn rộng
đến đâu nếu có người đủ khả năng viên thành tam muội
nầy!. Vì vậy, công đức có từ tam muội nầy không thể
tính đếm, không thể so lường được.(131)
[13a16]
‘Thập Ðịa kinh luận’ nói: {Nếu lửa trong kiếp hoại,
quan quyền, kẻ cướp, người gian ác, độc dược, loài rồng,
khí độc, thú dữ, và tật bệnh vây hãm người nầy, cũng
không làm mảy may khác đi được (132). Người [tu tập tam
muội nầy] luôn được chư thiên, long thần, tám loài phi nhân
cũng như chư Phật che chở, nhớ tưởng, và tán dương. Tất
cả các vị đều muốn thấy người nầy, và đi đến bất
cứ nơi nào người nầy trú ngụ. Những ai nghe đến tam muội
nầy, sinh lòng hoan hỷ về bốn loại công đức nói trên,
đều khiến chư Phật và chư Bồ Tát trong ba đời cũng hoan
hỷ như vậy. [Những công đức thực sự tu tập tam muội
nầy] vượt quá bốn loại công đức nói trên (133).} Không
như-pháp-tu-trì có nghĩa là mất đi vô số của báu, khiến
người cùng trời sẽ buồn khổ. Người nghe nhưng không tu
tập tam muội nầy] cũng giống như người mất tỷ căn, trầm
hương đầy trên hai tay nhưng không ngữi được hương thơm
(134), hoặc đứa trẻ con trong nông trại đổi châu ngọc quý
để chỉ lấy một con bò (135).
Vừa
thiền hành, vừa thiền tọa (136)
[13a
24] Thứ ba là phần giải thích về tam muội vừa thiền hành
vừa thiền tọa. Cũng sẽ nói về phương pháp tu tập, và
theo sau là phần khuyến tu. Phương pháp tu tập, lần lượt
được chia ra: những gì nên và không nên làm với thân, cái
gì nên nói và khi nào nên im đối với khẩu, và Chỉ Quán
đối với ý. Tên gọi vừa thiền hành vừa thiền tọa nầy
xuất xứ từ hai bản kinh . Bản thứ nhất là ‘Ðại phương
quảng đà la ni kinh’ (Maha-vaipulya-dharani Sutra) (137) nói: {Ði
nhiễu quanh 120 vòng. Sau đó ngồi xuống tư duy [về kinh] (138)}.
Kinh Pháp Hoa nói: {Nếu có người tụng đọc kinh nầy trong
lúc đi, đứng, hoặc ngồi tư duy về kinh, Ta, Phổ Hiền, sẽ
hiện thân lớn trước người ấy trên voi trắng sáu ngà}(139).
Với những lời tán tụng nầy, các ông có thể thấy rằng
cả hai bản kinh đều nói đến vừa thiền hành vừa thiền
tọa như phương pháp nền tảng.
Phương
Ðẳng Sám Hối (140)
[13a
29] Phương đẳng [sám hối] rất thâm sâu, không nên xem thường.
Nếu người muốn thực hành, phải có sự hộ niệm của các
vị bảo hộ tinh thần. (141). Vì vậy, trước tiên người
ấy phải thấy được các vị thần tướng. Nếu thành công
thì đó là [dấu hiệu] được phép thực hành sám pháp nầy
(142).
Phương
pháp thực hành
[13b1]
Thân. Trang nghiêm một đạo tràng ở nơi yên tĩnh, vắng vẻ
để thực hành (143). Trải nước thơm trên sàn và trong ngoài
đạo tràng. Ðặt một bàn thờ hình tròn, sơn phết sáng sủa
(144). Treo lọng phướn năm màu [cầu vồng], thắp hương ở
hướng đông (145), và thắp sáng các ngọn đèn. Ðặt tòa
cao [trên bàn thờ], thỉnh mời [và đặt] hình tượng tôn
nghiêm của 24 thiên thần (146). Nếu muốn thêm cũng không khác
chi. Dâng phẩm vật cúng dường [chư thần] (147), hết lòng
[dâng hiến phẩm vật]. Áo dài và giày phải sạch và mới
(148), nhưng nếu không có đồ mới, giặt sạch sẽ áo giày
đang dùng. Thay đổi y phục khi vào ra đạo tràng, cẩn thận
không để những áo giày [sạch] nầy lẩn lộn với những
áo quần [dơ] (149). Qua 7 ngày, không ăn quá buổi trưa (150),
và tắm gội thân thể 3 lần mỗi ngày (151).
[13b6]
Trong ngày thứ nhất, cúng dường chư tăng có mặt, hoặc nhiều
hoặc ít tùy tâm (152). Sau đó thỉnh một vị tăng am hiểu
giới luật trong ngoài làm vị thầy [của mình] (153). Theo lời
thầy, giữ gìn 24 giới luật (154), tụng chú đà-la-ni (155),
và trước mặt thầy sám hối những tội lỗi đã phạm (156).
[Phải cử hành nghi lễ] trong ngày thứ 8 hoặc ngày thứ 15
âm lịch (157), và chấm dứt trong 7 ngày (158). Ðừng giảm
số ngày hành lễ, nhưng có thể gia tăng tùy ý. Không hơn
mười người được phép dự buổi lễ (159). [Các ông] cũng
có thể mở cửa đạo tràng cho các cư sĩ (160). Những người
tham dự phải chuẩn bị 3 bộ quần áo được may đơn giản,
và thuần thục các nghi thức đạo tràng (fo fa-shih) (161).
[13b12]
Khẩu. [Tiếp theo chúng ta sẽ nói về ] những gì nên nói,
và lúc nào nên im. Người [hành lễ] nên thuộc lòng những
đoạn chú đà-la-ni [từ kinh] để có thể tụng đọc suông
sẻ. Thời lễ đầu tiên [trong ngày thứ nhất], cùng đọc
tụng (162), phụng thỉnh ba đời tam bảo [dưới hình thức]
mười vị Phật [nói trong kinh] (163). Phụ mẫu của kinh Phương
Ðẳng [đà-la-ni], và mười vị pháp vương tử (164). Nghi thức
thỉnh giáo (chao-ch’ing fa) được ghi trong Quốc Thanh Bách
Lục (K’uo-ching pai-lu) (165). Sau khi phụng thỉnh, thắp hương,
dâng tam nghiệp cúng dường (san-yeh kung-yang) (166). Khi cúng
dường xong, cung kính [lạy] tam bảo, những vị mà [các ông]
đã thỉnh mời (167). Sau khi lễ lạy, với tâm thành kính và
những giọt lệ [ăn năn], tiếp tục sám hối những lỗi lầm.
Sau cùng, đứng dậy đi nhiễu quanh 120 vòng. Một lần đi quanh,
tụng đầy đủ một đoạn [chú]. Không nên đi quá chậm hoặc
quá nhanh, đọc tụng cũng đừng nên quá lớn hoặc quá nhỏ.
Sau khi đã xong phần đi nhiễu quanh và tụng chú, cung kính
lễ lạy mười vị Phật, Ðại Phương Ðẳng Tam Muội Kinh
([Maha]-vaipulya-dharani Sutra), và mười vị pháp vương tử. Khi
đã hoàn tất mọi việc, hãy [vào một góc] yên tĩnh tọa
thiền (168). Sau đó, đứng dậy đi nhiễu quanh, và đọc tụng.
Rồi lại tọa thiền. Khi đã hoàn tất, làm lại tất cả
[từ đầu đến cuối]. Tiếp tục như vậy cho đến hết ngày
thứ bảy. Khởi sự giai đoạn (hành lễ) thứ hai, thì có
thể bỏ qua phần cung thỉnh, nhưng tiếp tục thực hành những
phần khác đầy đủ như trước (169).
[13b21]
Ý. Tiếp theo chúng ta sẽ nói về Chỉ và Quán đối với ý
(170). Khi kinh nói ‘suy tư’, có nghĩa rằng suy nghĩ về ‘đại
thần chú thiêu hủy [tội chướng], và mang lại [thiện hạnh](Maha-dahana-dharani)
(171). Ðược dịch, [câu] nầy có nghĩa là ‘chế ngự ác
gian đưa đến thiện lành’ (172). ‘Mật yếu’ có nghĩa
không gì ngoài chân như, trung đạo, chân không (173).
[13b24]
Trong kinh ‘Ðại Phương Ðẳng đà-la-ni’ có nói: {Ta đến
từ chính giữa thực tại. Thực tại có tướng tịch diệt
(tức Niết Bàn). Không có gì được tìm kiếm trong tướng
tịch diệt. Người đi tìm cũng là Không, bởi vì người nào
nắm bắt, kẻ ấy [tự] trói buộc (174), [tức] kẻ đã nhìn
sự vật là có thực (175). Người đến và đi trong suốt [thời
gian] tu tập tam muội, người lên tiếng, người đặt ra những
câu hỏi, tất cả những người nầy cũng là Không. Tịch
diệt cũng chính thực là Không, như là một bầu trời mở
rộng, với vô số cõi nước. Vì vậy, ngay chỗ không có gì
để tìm kiếm mà ta tìm [chân lý]. Cái Không nầy, là cái
chính nó [cũng] là Không, là pháp chân thực. Con người tìm
kiếm nó ở đâu?. Hãy tìm trong lục độ (176)}.
[13b29]
Chỗ nầy tương tự mười tám Không trong Pancavimsati (177).
Xa hơn, tánh Không của thành Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavastu) trong
kinh Niết Bàn, tánh Không của Như Lai Tạng, và tánh Không
của Ðại Bát Niết Bàn (Mahaparinirvana) không khác với tánh
Không nầy (178). Nếu các ông dùng trí chứng ngộ tánh Không
nầy [để nhìn] tất cả những gì các ông gặp gỡ, sẽ không
có cái gì mà không có cái dụng như một nền tảng quán chiếu.
[13c2]
Chữ ‘Phương Ðẳng’ (Vaipulya) có thể định nghĩa là ‘vuông
vắn và thứ bậc’. Nhưng trong trường hợp nầy ‘phương’
có nghĩa là ‘phương pháp’. Có bốn phương pháp đến với
trí tuệ bát nhã. Ðiều nầy để nói rằng bốn cửa đưa
đến ao nước tịnh [của trí tuệ] là ‘phương pháp’ (179).
‘Ðẳng’ (bằng nhau) có nghĩa là nguyên lý mà con người
chung cùng thì không gì khác hơn là đại trí bình đẳng và
như nhau.
[13c5]
Sự đòi hỏi hành giả phải tìm kiếm [một dấu hiệu từ]
các vị thần tướng làm sáng tỏ ý nghĩa phương tiện thiện
xảo của hai cái thấy đầu tiên (180). Nơi chốn tu hành trang
nghiêm biểu trưng cảnh giới thanh tịnh: nơi đây hành giả
[gieo hạt giống], thổi tung mê muội từ năm cơ sở [của
ảo vọng], và hiển lộ ‘mộng lúa’ chân như (181). Ở đây
cũng làm sáng tỏ sự trang nghiêm pháp thân bằng thiền định
và trí tuệ. Tô quét hương thơm tượng trưng giới hạnh (sila)
thanh tịnh. Phan lọng năm màu có ý nghĩa làm thế nào quán
chiếu ngũ uẩn (skandha) và giải thoát từ những trói buộc
phát sinh tâm đại từ đại bi bao trùm pháp giới. [Hình dáng]
bàn tròn tượng trưng nền tảng chân lý viên dung vững vàng.
Phướn lụa (182) tượng trưng [ngọn cờ] thấu triệt tung
bay khi [ngọc cờ] mê lầm [từng bay] trên pháp giới rủ xuống.
Lọng phan và bàn thờ không rời nhau có ý nghĩa không có sự
phân chia giữa [hai mặt giác ngộ] động và tịnh (183). Hương
và đèn tượng trưng đạo đức và trí tuệ (184). Ðài cao
cho thấy rằng tất cả các pháp là Không, và Phật trụ giữa
tánh Không nầy (185). Hai mươi bốn ảnh tượng có ý nghĩa
trí tuệ giải thoát quán mười hai nhân duyên theo cả hai thứ
tự thuận và nghịch. Thực phẩm cúng dường tượng trưng
vô thường và đau khổ, dùng như những quán chiếu trợ đạo
(chu-tao kuan). Quần áo sạch sẽ tượng trưng tánh nhẫn của
tịch diệt (186). Sự tích chứa của sân hận và những mê
muội khác gọi là ‘cũ’, trong khi quay ngược những sân
si mê đắm nầy và chứng ngộ được tánh nhẫn thì gọi
là ‘mới’. Bảy ngày thực hành có nghĩa là ‘Thất Bồ
Ðề Phần’ (bodhyanga) (187). [Chu kỳ] một ngày tượng trưng
nhất đế. Tắm gội ba lần có ý nghĩa làm thế nào sự quán
chiếu về nhất đế và sự tu tập tam phân biệt có thể
xóa bỏ tam chướng và thanh tịnh tam tuệ (188). Một vị thầy
tượng trưng nhất đế. Hai mươi bốn giới tượng trưng quán
chiếu nhân duyên theo hai chiều thuận và nghịch khiến đưa
đến sự phát sinh những giới cùng với [sự chứng ngộ]
đạo (189). Tụng chú tức bảo toàn sự ứng hợp (190). Kinh
Anh Lạc giải thích rằng có mười pháp đối với mười hai
nhân duyên, làm thành 120 pháp. 120 pháp nầy có thể tổng kết
lại thành ba đường là khổ đạo, nghiệp đạo, và phiền
não đạo (192). Tụng [đà-la-ni] đối với [120] nhân duyên
nầy thì tương đương với việc tụng [đà-la-ni] đối với
ba đường [dữ]. Chỗ nầy có thể tựu thành ‘sám hối’.
[13c22]
Sám hối được thực hành trên căn bản sự tướng (shih ch’an-hui)
bỏ các đường khổ và nghiệp, trong khi đó, sám hối thuận
theo lý (li ch’an-hui) bỏ đường phiền não (193). Kinh nói:
{Nếu có nguời vi phạm bất cứ giới luật nào, từ kẻ sơ
cơ đến người hành khất, thì do pháp sám hối nầy, người
ấy không thể không được trở lại đời sống trong tăng
đoàn (194). Ðây là đoạn kinh nói về sám hối đường nghiệp
(195). ‘Thanh tịnh mắt, tai, và các căn khác trong sáu căn’
là đoạn kinh nói về sám hối đường khổ (196). ‘Ðến
ngày thứ bảy người ấy sẽ thấy được chư Phật khắp
mười phương, nghe được chư Phật thuyết pháp, và đến
được chỗ bất thối chuyển’ là đoạn kinh nói về sám
hối đường phiền não (197). Khi ba chướng ngại đã diệt
trừ, cội mầm mười hai nhân duyên sẽ rụi tàn (198). Chỗ
nầy cũng có nghĩa rằng chỗ trú ẩn của ngũ uẩn sẽ trống
không. Suy tư chân lý [như vậy], người ấy sẽ diệt được
[ba chướng ngại]. Ðó là lý do tại sao [nghi thức] sám hối
nầy được nhìn như ‘chân pháp của chư Phật’ (199).
Khuyến
khích thực hành
[13c29]
Tiếp theo là phần nói về khuyến tu. Khi chư Phật chứng đạo,
chư vị đều qua phương tiện của pháp nầy. Ðây là cha,
là mẹ của chư Phật, là kho báu vĩ đại của tất cả thế
gian (200). Bất cứ ai có thể thực hành sám pháp nầy tức
là được đầy đủ kho báu. Người có thể đọc, tụng có
được một phần trung bình kho báu, và người dâng hương
hoa cúng dường được một phần nhỏ kho báu. Trong kinh Phật
và ngài Văn Thù giải thích rằng dù là một phần nhỏ kho
báu cũng không cùng tận, huống chi phần trung bình và phần
lớn. Nếu có người chất đầy của cải từ mặt đất cho
đến cõi trời Phạm thiên để cúng dường Phật, công đức
ấy cũng không sánh bằng công đức cúng dường người thọ
trì kinh nầy một bữa ăn no đủ (201). Công đức có được
đã thuyết rõ trong kinh.
Pháp
Hoa Tam Muội (202)
[14a5]
Pháp Hoa tam muội cũng vậy, phần giải thích sẽ được chia
ra hai đề mục phương pháp và khuyến tu.
Phương
pháp thực hành
[14a6]
Thân. Những động tác của thân liên quan mười khía cạnh
(203): (1) trang nghiêm và thanh tịnh đạo tràng, (2) thanh tịnh
thân tâm (204), (3) tam nghiệp cúng dường (205), (4) cung thỉnh
chư Phật (206), (5) cung bái chư Phật (207), (6) sám hối sáu
căn (208), (7) đi nhiễu quanh (209), (8) tụng đọc kinh (210),
(9) tọa thiền (211), (10) chánh tướng (212). (Có một chương
mục [về nghi lễ nầy] mang tên là ‘Pháp Hoa Tam Muội Sám
Nghi’ do Ðại Sư Thiên Thai (Trí Khải) viết. Tác phẩm nầy
rất phổ thông ngày nay, và được các hành giả tán tụng
là đáng tin cậy) (213).
[14a10]
Khẩu. Vì những phần trên đã giảng về những gì nên nói
và khi nào nên giữ yên lặng, chúng ta sẽ không nói thêm ở
đây nữa.
[14a11]
Ý. Chỉ và Quán của ý (214). Kinh ‘Quán Phổ Hiền Bồ Tát’
nói: {Chỉ tụng kinh điển Ðại Thừa không vào tam muội}(215).
Trong sáu thời ngày và đêm [hành giả được chỉ dẩn] sám
hối tội lỗi do sáu căn gây tạo (216). Phẩm ‘An Lạc Hạnh’
[trong kinh Pháp Hoa] nói: {Trong tất cả pháp, không có pháp
nào trong đó vị Bồ Tát ... Ngài chẳng thực hành cũng chẳng
phân biệt [đối với chúng] (217)}.
[14a13]
Hai tạng kinh nầy vốn được kết hợp [như một giáo pháp]
(218). Làm sao người ta lại có thể nghĩ đến việc để ra
làm hai chỗ đối nghịch, dựa hẳn vào một [bản kinh] nầy
và chối từ [bản kinh] kia? (219). Thứ tự bản kinh diễn đạt
chỉ là vấn đề tùy nghi [và không được nhìn như ý nghĩa],
vì không có sự khác biệt đáng kể nào. Trong phẩm ‘An Lạc
Hạnh’ thì {giữ gìn, duy trì, đọc, tụng, và thuyết giảng
kinh (220)}, và {chân thành cung kính lễ lạy [chư Bồ Tát khắp
mười phương] với cả tấm lòng (221)} chẳng phải là làm
những cái liên quan đến sự tướng (shih)? Rồi thì trong kinh
‘Quán Phổ Hiền Bồ Tát’ cũng giải thích sám hối là cái
vô tướng: {Bởi vì tâm con người chính nó là Không, không
hề có một chủ thể mà nơi đó tội và phước có thể cư
trú (222)}, và {Mặt trời trí tuệ có thể làm tan sương mù
tội lỗi (223)}. Làm thế nào đây chẳng phải là [thực hành
dựa vào] lý (li) (224)?.
[14a18]
Tôn sư Nam Nhạc (Tuệ Tư) nói đến ‘hữu tướng an lạc
hạnh’ (yu-hsiang an-le hsing) và ‘vô tướng an lạc hạnh’
(225). Chẳng phải những diễn đạt về ‘hữu tướng’ và
‘vô tướng’ nầy đã căn cứ vào sự và lý?. Sở dĩ tôn
sư gọi đó là ‘hữu tướng’ bởi vì hành giả thực hành
qua những phương tiện của sự tướng, và hành lễ sám hối
sáu căn như phương tiện đưa đến (226) giác ngộ. Cái mà
tôn sư gọi là pháp ‘vô tướng’ diễn đạt phương tiện
quán chiếu trực tiếp tánh Không của vạn pháp. Vào giây
phút chứng ngộ kỳ diệu thì cả hai pháp môn đều quăng
bỏ. Một khi hiểu được điều nầy, hành giả sẽ không
còn bối rối giữa những khác biệt bên ngoài của hai bản
kinh.
[14a
22] Bây giờ chúng ta sẽ nói đến việc làm thế nào thực
hành quán chiếu có thể được áp dụng vào văn bản (227).
Ở đoạn kinh ‘voi trắng sáu ngà’ có nghĩa là sáu thanh
tịnh lực của Bồ Tát Phổ Hiền, vì công dụng của cái
ngà thì chớp nhoáng như khả năng thấu triệt của thần thông
(228). Sức mạnh của voi tượng trưng cho [sức thần biến
của] pháp thân. Vì không ô nhiễm nên là voi trắng. Ba vị
trên đầu, một vị giữ đầu gậy kim cương, một vị giữ
vòng kim cương, và một vị giữ ngọc Như Ý- có nghĩa rằng
tam tuệ trú trên đỉnh cao vô lậu (anasrava). Dẩn đường
voi đi bằng gậy kim cương có nghĩa rằng trí tuệ đưa đường
tu trì như thế nào. Chuyển vòng kim cương có nghĩa [từ Không]
đi vào Giả. Ngọc Như Ý biểu tượng cho Trung Ðạo. Có những
ao nước trên ngà voi tượng trưng cho tám giải thoát là bản
thể của thiền định (dhyana) (229), và lục thông là hoạt
dụng của tam muội, vì thể và dụng thì không rời nhau. Trên
đầu ngà voi có ao nước, và trong ao nước có hoa sen. Hoa sen
tượng trưng cho diệu nhân (230). {Diệu] nhân là thanh tịnh
cõi Phật, và làm lợi ích chúng sinh bởi thần lực của Bồ
Tát. Nhân nầy xuất sinh từ thần lực như hoa sen trổ cánh
từ ao nước. Trên mỗi tòa sen có một thiên nữ tượng trưng
cho tâm từ. Nếu vị ấy không có tâm từ vô điều kiện,
làm cách nào có thể dùng thần thông thu hình nhỏ lại để
vào cõi sa bà của chúng ta?. Thần lực do từ tâm tác động
cũng như thiên nữ ngự [vững vàng] trên đài sen. Chư vị
thiên nữ cầm nhạc khí tượng trưng tứ nhiếp pháp (231).
Khi tâm từ được thực hành qua thân và khẩu, tạo được
nhiều hoạt dụng bình đẳng và lợi ích. Có hai loại bố
thí là tài thí và pháp thí- tùy người mà mang nhiều hình
thức khác nhau tương tự như âm thanh vô tận từ năm trăm
nhạc khí. Ngài Phổ Hiền hiện thân tướng khiến chúng sinh
cảm thấy an lạc khi nhìn thấy biểu thị tam muội là nơi
sắc tướng được phơi trải [cùng khắp pháp giới] (232).
Ngài vì chúng sinh hiện bất cứ hình tướng nào khiến chúng
sinh được lợi ích và an vui. Không nhất thiết phải hiện
thân trong sáng như ngọc [của Phổ Hiền]. Ngữ ngôn đà-la-ni
(233) có ý nghĩa rằng lời hòa hợp với từ tâm, và các pháp
khác nhau từ đó được thuyết. Tất cả những điều nầy
chỉ là một tên gọi khác của Pháp Hoa tam muội. Bất cứ
ai hiểu được nghĩa nầy đều có được chỗ ngồi trên
voi trắng và tự tại thuyết pháp.
Khuyến
khích thực hành
[14b11]
Ðây là lúc chúng ta nói về khuyến tu. Như trong kinh ‘Quán
Phổ Hiền Bồ Tát’ nói rằng bất cứ một ai trong bảy hàng
thính chúng (234) vi phạm giới luật, và muốn ‘xóa tan trong
khoảng thời gian búng hai ngón tay những tội lỗi đã phạm
trong hằng muôn kiếp không tính đếm được trong cõi luân
hồi’ (235); nếu có người muốn phát tâm Bồ Ðề, và vào
Niết Bàn ‘không diệt ô nhiễm, thanh tịnh sáu căn không
lìa xa ngũ dục, và thấy cái ở trên chướng ngại’ (236);
nếu có nguời ‘muốn thấy thân Phật Thích Ca Mâu Ni, cũng
như thấy thân Phật Ða Bảo và Phật Thích Ca’(237); nếu
có người muốn được Pháp Hoa tam muội và tất cả những
ngữ ngôn đà-la-ni, vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi
tòa Như Lai, và ở tại nơi đó thuyết pháp cho Trời, Rồng,
tám loài phi nhân; nếu có người muốn có cái thấy của ‘các
vị đại Bồ Tát Văn Thù và Dược Sư, và đứng dâng hương
hoa [cúng dường] trước chư vị’ (239); thì người ấy nên
‘tu tập kinh Pháp Hoa nầy, đọc tụng kinh điển Ðại Thừa,
và tâm niệm hành pháp Ðại Thừa’ (240). Ðưa vào tâm những
tương âm với trí tuệ tánh Không nầy, người ấy nên duy
trì tâm niệm của mẹ chư Bồ Tát. Ðó là do tư duy chân lý
tối thượng mà những phương tiện lực như vậy phát sinh.
‘Tội lỗi vô cùng lớn giống như sương mù: sẽ tan đi vì
trí tuệ’ (241). Nếu người ấy có thể nhận được điều
nầy thì không có gì mà người ấy không thể gặp. ‘Bất
cứ ai có thể gìn giữ kinh nầy có thể thấy tôi, [Phổ Hiền],
sẽ thấy Ngài [Ðức Thích Ca Mâu Ni], và sẽ được cúng dường
Ðức Phật Ða Bảo và những hóa thân [của Ðức Thích Ca],
khiến tất cả chư Phật hoan hỷ.’
[14b24]
Tất cả đã được diễn tả chi tiết như trong kinh. ai có
thể nghe các pháp như vậy mà không muốn phát tâm? Chỉ những
kẻ hạ liệt, ngu si, tăm tối, và mê muội.
Chẳng
thiền hành chẳng thiền tọa
[14b26]
Thứ tư là [tu tập] tam muội [bằng phương pháp] chẳng thiền
hành chẳng thiền tọa. Những phương pháp nói trên áp dụng
cho thiền hành hoặc thiền tọa, nhưng phương pháp nầy có
khác. Tên gọi ‘chẳng đi, chẳng ngồi’ được dùng chỉ
để đầy đủ bốn [phần liên hệ] (242). Trong thực tế phương
pháp nầy bao gồm hành và tọa, cũng như tất cả hình tướng
(shih). Như vậy tôn sư Nam Nhạc (Tuệ Tư) đặt tên là tam
muội ‘Tùy Tự Ý’ (sui-tzu-i) (243). Ðiều nầy để nói rằng,
bất cứ khi nào niệm hoặc những gì thuộc về ý dấy khởi,
hành giả dùng nó để tu tập tam muội ngay tại đó. Pancavimsati
gọi là ‘giác ý tam muội’ (chueh-i san-mei) (244). Bất cứ
những gì xoay chuyển ý niệm, hành giả cố gắng tĩnh giác.
Mặc dù có ba tên khác nhau, nhưng chỉ là một, và cùng phương
thức hành trì.
[14c1]
Giờ đây chúng ta sẽ dựa vào kinh giải thích [về ‘giác
ý tam muội’] (245). Giác có nghĩa hiểu rõ ràng, niệm hoặc
ý chỉ cho những yếu tố thuộc về tâm. Tam muội thì đã
giải thích ở phần trước (246). Khi tâm ý phát khởi, hành
giả quay lại [nhìn vào nó], và quán sát rõ ràng (fan chao kuan-ch’a).
Làm như vậy, hành giả thấy rằng chẳng bắt đầu cũng chẳng
chấm dứt, chẳng từ đâu đến cũng chẳng đi về đâu đối
với dòng tư tưởng nầy (247). Ðây là nghĩa ‘giác ý tam
muội’.
[14c4]
Vấn: {Những yếu tố thuộc về tâm thì vô lượng, tại sao
ông chỉ luận về giác trên căn bản tác động của niệm
hoặc ý?}.(248)
[14c5]
Ðáp: {Nếu có người tìm kiếm nguồn cội của vạn pháp,
người ấy sẽ nhận ra rằng tất cả là sản phẩm của niệm
hoặc ý. Vì vậy, chúng ta lấy chữ ‘niệm’ hoặc ‘ý’
để bắt đầu [bài giảng].
[14c5]
Ðối tượng tri giác phân biệt chúng ta với cây, đá gọi
là tâm (citta). Kế đến, năng lực của tâm so đo từ chỗ
nầy đến chỗ khác gọi là ý (manas). Và tất cả những nhận
biết phân biệt gọi là thức (vijnana). Bất cứ những ai [bám
vào] những phân biệt như vậy là đã rơi vào tâm điên đảo,
niệm điên đảo, và cái nhìn điên đảo (249). Tại sao gọi
là giác? Giác tức tâm hiểu thấu triệt, [lực của] tư tưởng
hoặc ý thì chẳng có chẳng không có, và thức chẳng có chẳng
không có; niệm chẳng bao gồm chẳng không bao gồm tâm, và
chẳng bao gồm chẳng không bao gồm thức; và thức chẳng bao
gồm chẳng không bao gồm niệm, và chẳng bao gồm chẳng không
bao gồm tâm. Vì tâm, niệm, và thức chẳng phải một và như
nhau, ba tên được thành lập; và bởi vì chúng không phải
là ba, chúng ta nói rằng chỉ có một bản tánh. Nếu ai hiểu
được rằng ‘danh’ là ‘vô danh’, thì ‘tánh’ như ‘vô
tánh’. Vì ‘danh’ không được nhận, [ba khía cạnh của
tâm] không phải là ba; và vì ‘tánh’ không được nhận,
chúng không phải là một. Không là ba, chúng không chia chẻ;
không là một, chúng không hội hoặc thành (250). Vì chúng không
hội, [ba mặt nầy] chẳng tuyệt đối không, và vì chẳng
chia chẻ, chúng chẳng tuyệt đối hữu. vì không tuyệt đối
hữu, chúng không phải là thường; và vì chẳng là không,
chúng vốn chẳng đoạn. Nếu có người chẳng chấp vào cái
thấy thường cũng chẳng chấp vào cái thấy đoạn, thì người
ấy đã hiểu rốt ráo rằng chẳng cùng chẳng khác (251).
[14c17]
Nếu có người quán ‘niệm’ hoặc ‘ý’ (i), cần phải
bao gồm ‘tâm’ (hsin) và ‘thức’ (shih), cũng như tất cả
những pháp khác. Nếu có người từ khước [cái dụng] của
‘niệm’ thì vô minh cũng bị diệt, và những phiền não
khác đều tan biến (252). Ðây là lý do tại sao, dù rằng có
nhiều pháp, chúng ta chỉ chọn ‘niệm’ và ‘ý’ (253) để
giải thích tam muội nầy. Qua quán chiếu, người ấy điều
phục và tu sửa (254) tâm mình. Ðó là lý do tại sao chúng
ta gọi là ‘giác ý tam muội’ (255). Những tên gọi khác
như ‘tùy tự ý’ và ‘phi hành phi tọa’ cũng có thể được
hiểu như vậy.
[14c20]
Chúng ta chia buổi giảng hôm nay ra làm bốn phần: thứ nhất
là [tu tập tam muội] trên căn bản [thực hành được dạy
trong] kinh điển; thứ hai là [tu tập tam muội] bằng cách áp
dụng những thiện pháp khác; thứ ba là [tu tập tam muội]
trên căn bản tà pháp; và thứ tư là [tu tập tam muội] đối
với vô ký pháp.
Tu
tập trên căn bản kinh điển
[14c21]
Bất cứ phương pháp tu tập theo kinh điển nhưng không giống
với ba hình thức [tam muội] (256) đã nói trên thì thuộc về
‘tùy tự ý’ [tam muội]. Tuy nhiên, ở đây chúng ta sẽ giải
thích phẩm tánh của tam muội nầy trong tương quan đặc biệt
với ‘Thỉnh Quán Âm kinh’ (257).
[14c23]
Trang nghiêm một đạo tràng ở nơi yên tĩnh, treo phướn, lọng,
hương, đèn (258). Cung thỉnh Ðức Phật A Di Ðà và hai vị
Bồ Tát Quán Thế Âm và Ðại Thế Chí bằng cách đặt hình
tượng của chư vị ở hướng Tây đạo tràng (259). Dâng nhánh
liễu làm sạch răng (260) và nước sạch. [Khi vào ra đạo
tràng] từ bên trái và phải hoặc [tới lui] các ông phải
ướp hương thơm trên thân (261), tắm gội sạch sẽ, mặc
quần áo mới và sạch. Mỗi sáu ngày phát lồ (uposatha) trong
tháng phải chọn là thời gian bắt đầu buỗi lễ (262).
[14c27]
Quay mặt về hướng Tây, gieo cả năm phần thân xuống đất
(263), và cung kính tam bảo qua hình tượng của bảy vị Phật
(264): Ðức Thích Ca Mâu Ni, Ðức A Ði Ðà, ba đà-la-ni (265),
hai vị Bồ Tát [Quán Thế Âm và Ðại Thế Chí], và chư thánh
chúng (266). Sau phần bái lạy, quỳ dâng hương và rải hoa
thơm (267). Nhất tâm hướng về tam bảo theo nghi lễ thông
thường (268). Khi đã xong, ngồi xuống trong tư thế hoa sen
và yên tịnh thân tâm (269). Chú ý đến cách đếm hơi thở,
mỗi một vòng là mười lần [thở ra hít vào] (270). Khi mười
lần đã xong, đứng dậy, dâng hương, trong khi hồi hướng
cho tất cả chúng sinh, cung thỉnh ba đời tam bảo đã nói
trên (271). Khi cung thỉnh, xưng tán hồng danh ba đời chư Phật
(272). Cũng xưng tán hồng danh Ðức Quán Thế Âm. Rồi thì
chắp tay cung kính đọc tụng bốn dòng kệ (273). Sau đó, tụng
ba bài chú. Các ông có thể đọc hết một lần hoặc bảy
lần, tùy theo thời gian (274). Sau phần đọc tụng chú, thú
nhận và sám hối tội lỗi đã phạm. Hãy nhớ lại những
giới luật đã vi phạm. Khi phơi bày tất cả ra, hãy tưởng
tượng rằng chính mình đang tẩy rửa sạch sẽ. Sau đó cung
bái chư thánh thần đã cung thỉnh. Sau đó, một người ngồi
trên tòa cao để đọc hoặc tụng bản kinh [‘Thỉnh Quán
Âm’] trong khi những người khác chăm chú lắng nghe. Buổi
lễ có thể được cử hành vào buổi sáng hoặc buổi trưa
(275). Dùng tiêu chuẩn hành lễ cho bốn thời sau (276). Những
ai không thích giản lược thì có thể theo kinh mà hành lễ.
[15a
9] [‘Thỉnh Quán Âm’] kinh nói: {Mắt theo sắc thì làm sao
mà có thể tịnh và an trụ? Ý theo đối tượng của tâm,
làm sao có thể tịnh và an trụ [một chỗ]? (277)}. Kinh Ðại
Tập (Mahasamnipata) nói: {[Gọi là] trụ trong tâm chỉ như nó
là (278)}. Cái ‘chỉ như nó là’ thì không gì khác hơn là
Không. Ðoạn kinh văn được đọc như sau ‘mỗi một [căn
trong sáu căn] vào thực tế’ chỉ là một cách diễn tả
khác về Không và Như Thị.
[15a
12] [Ngài Xá Lợi Phất nói trong kinh ‘Thỉnh Quán Thế Âm’]
{Ðịa đại thiếu tánh vững chắc (279)}. Nếu chúng ta nói
rằng đất hiện hữu, thì vì ‘hiện hữu’ chúng ta có ý
nói về ‘thực thể’ hoặc ‘chân lý’, và ‘thực thể’
là cái ‘vững chắc’ muốn nói đến. Nhưng nếu chúng ta
nói rằng đất không hiện hữu, hoặc cả hai hiện hữu và
không hiện hữu, những diễn tả nầy vẫn là ám chỉ thực
thể thuộc hiện tượng; vì vậy cũng bao gồm trong ý nghĩa
‘vững chắc’. Ở đây, [bản kinh] từ chối tánh giả định
của sự cứng chắc bằng cách chỉ ra rằng đó là hoàn toàn
không liễu ngộ.
[15a
15]{Tánh của nước thì không trú ở bất cứ nơi đâu.}Nếu
chúng ta nói rằng nước hiện hữu, thì với [chữ] ‘hiện
hữu’ chúng ta có ý nói rằng ‘trú’. Cũng giống như vậy,
tiếp tục nói rằng nước chẳng hiện hữu chẳng không hiện
hữu thì vẫn còn nhìn như là ‘trú’. Bây giờ nước không
trú trong sự hiện hữu của tứ [đại], cũng chẳng không
trú trong sự không hiện hữu của tứ [đại], cũng không có
trong những cái không thể diễn đạt. Ðó là lý do tại sao
[kinh] nói: {tánh của nước thì không trú.}
[15a
18] {Tánh của gió không ngăn ngại}. Nếu chúng ta quán gió
là ‘hiện hữu’, thì ‘hiện hữu’ trong trường hợp nầy
là ‘ngăn ngại’. Tiếp tục nói rằng ‘gió chẳng hiện
hữu chẳng không hiện hữu’ thì cũng không thích nghi. Ngay
cả bốn [đại] không hiện hữu cũng không [phát họa được
gió]. Ðó là lý do tại sao nói rằng {tánh gió là sự không
ngăn ngại}.
[15a
20] {Hỏa đại không có tự thể}. Lửa không tự phát sinh,
không từ chỗ khác [mà sinh], không từ cả hai, cũng chẳng
không có [sinh] nhân. Từ căn bản vốn thiếu tự thể và tùy
nhân duyên mà có. Ðó là lý do tại sao kinh nói nó không tự
thể. Vì là lối quán sắc tướng, nên ‘thọ, tưởng, hành,
thức mỗi mỗi đều như vậy’.
[15a
23] Sự quán chiếu ngũ uẩn cũng như vậy, mỗi mỗi trong mười
hai vòng nhân duyên giống như tiếng vang trong vực thẳm, [chỉ]
cứng cát [đến như] bẹ cây chuối, thoáng có như hạt sương,
như ánh chớp v.v... (280). Như vậy, tại mỗi khoảnh khắc
của tâm hành, hành giả có thể đưa đến sự quán tưởng
đầy đủ về tánh Không. Hành giả nên tận tâm phát huy sự
quán chiếu nầy để đưa tâm vào trong âm hưởng [của chân
lý]. Nền tảng quán huệ (kuan-hui) nầy không được thiếu
sót (281).
[15a
25] Ðà-la-ni đoạn trừ ảnh hưởng của độc hại có khả
năng diệt báo chướng (282). [Khi nghe Phật thuyết kệ, xưng
tán tam bảo và thần chú Quán Thế Âm], người trong thành
Tỳ Xá Ly được an bình như trước (283).
[15a
27] Ðà-la-ni đoạn trừ ác nghiệp có khả năng diệt nghiệp
chướng, vì khi đọc tụng, ngay cả người từng phạm tịnh
giới có thể xóa bỏ dơ bẩn và trở nên thanh tịnh (284).
[15a
28] Lục tự chương cú đà-la-ni có khả năng đoạn trừ phiền
não chướng (285). Không thể nghi ngờ rằng [đà-la-ni nầy]
có khả năng thanh tịnh tam độc và đưa đến sự chứng ngộ
Bồ Ðề. ‘Lục tự’ có ý nghĩa sáu [chữ] của Ðức Quán
Thế Âm, hợp lại có thể diệt tam chướng trong sáu cõi (286).
Ðại Bi Quán Thế Âm diệt tam chướng trong cõi địa ngục,
vì khổ trong cõi nầy thì kinh khủng đến đổi Ngài ứng
dụng [lực] đại bi. Ðại Từ Quán Thế Âm diệt tam chướng
trong cõi ngạ quỷ, vì sự đói khát trong cõi nầy ứng hợp
với [lực] đại lợi ích [chúng sinh] của Ngài. Sư Tử Vô
Úy Quán Âm diệt tam chướng trong cõi súc sanh vì vua loài thú
thì rất to lớn và hung dữ, ứng hợp với sự ứng dụng
lực vô úy của Ngài trong cõi nầy. Ðại Quang Phổ Chiếu
Quán Thế Âm diệt tam chướng trong cõi A tu la vì sức mạnh
của lòng đố kỵ và ghét bỏ trong cõi nầy ứng hợp với
sự ứng dụng lực phổ chiếu của Ngài. Thiên Nhân Trượng
Phu Quán Thế Âm diệt tam chướng trong cõi người. Trong cõi
người có cả Lý lẩn Sự. Gọi là ‘Thiên’ vì Ngài dùng
phương tiện thuộc sự tướng để điều phục tâm mê muội
của con người. Gọi là ‘Trượng Phu’ vì Ngài dùng Lý để
giúp con người thấy được Phật tánh trong chính họ. Ðại
Phạm Thâm Viễn Quán Âm diệt tam chướng cõi Trời. Phạm
Thiên là vua cõi Trời, nên khi nói đến vương, thì cũng gồm
có chư hầu.
[15b10]
[Nói] rộng chỗ nầy, chúng ta có thể thấy được rằng lục
Quán Âm có ý nghĩa hai mươi lăm tam muội (287). Ðại Bi Quán
Âm có nghĩa vô cấu tam muội. Ðại Từ Quán Âm nghĩa an lạc
tam muội. Sư Tử Vô Úy Quán Âm nghĩa bất thoái tam muội.
Ðại Quang Phổ Chiếu Quán Âm nghĩa hoan hỷ tam muội. Thiên
Nhân Trượng Phu Quán Âm nghĩa bốn tam muội bắt đầu với
như huyễn tam muội. Ðại Phạm Thâm Viễn Quán Âm nghĩa tam
muội thứ mười bảy bắt đầu với bất động tam muội.
Hãy tiếp tục suy nghiệm, sẽ hiểu được nghĩa.
[15b14]
Kinh nầy có thể được dùng trong [nghi lễ] sám hối cho bất
cứ thừa nào trong tam thừa. Nếu có người làm theo và giải
thoát chính mình, diệt được kẻ cướp là những trói buộc,
người ấy sẽ đắc quả A la hán. Nếu người ấy có đầy
đủ công đức và căn tánh sắc bén, thì quán chiếu vô minh,
hành, và những phần còn lại [của mười hai nhân duyên],
người ấy sẽ đắc quả Bích Chi Phật. Nếu người ấy phát
tâm đại bi, thân sẽ trong suốt như mã não, và chư Phật
sẽ hiện trong từng điểm cực vi. Người ấy sẽ chứng được
Thủ Lăng Nghiêm tam muội, và trụ ở chỗ bất thối chuyển
(288).
[15b17]
Trong các kinh điển Ðại thừa đều có tu tập như trên, như
sám hối bảy vị Phật và tám vị Bồ Tát (289), hoặc sám
hối tám trăm ngày để gột rửa những nơi cáu bợn như được
nói trong kinh ‘Quán Bồ Tát Hư Không Tạng’(290). Tất cả
những thực hành nầy đều bao gồm trong Tùy Tự Ý (tui-tzu-i)
tam muội.
Quán
thẳng vào giữa thiện pháp
[15b20]
Thứ hai là phần [quán chiếu] áp dụng vào các thiện [pháp].
Phần nầy được chia làm hai mục: phân biệt tứ niệm trụ,
và phần tiếp theo ứng dụng vào vô số thiện [hạnh].
Bốn
trạng thái chuyển động của tư tưởng
[15b21]
Chúng ta khởi đầu với phần giải thích về bốn trạng thái
chuyển động của tư tưởng. Tâm và thức, là vô tướng,
không thể lý giải chính nó; nhưng từ [sự tác động tạm
thời](291) của nó có thể được phân biệt qua bốn tác động
theo nhau: chưa khởi niệm, sắp khởi niệm, đang khởi niệm,
và niệm hoàn tất. Chưa khởi niệm chỉ cho trạng thái tâm
chưa sinh khởi [tác động vào đối tượng]. Sắp khởi niệm
chỉ cho trạng thái tâm ở lằn ranh giới [tác động vào đối
tượng]. Ðang khởi niệm chỉ cho trạng thái tâm hoàn toàn
ở trong [sự tác động vào đối tượng]. Niệm hoàn tất
chỉ cho trạng thái chuyển động đến chỗ tận cùng, tác
động tinh thần vào đối tượng phai mờ và tan biến (292).
Bất cứ ai thấu hiểu bốn [trạng thái chuyển động] sẽ
hội nhập được nhất tướng, [nhất tướng đó] là vô tướng
(293).
[15b25]
Vấn: {Trạng thái chưa sinh khởi [có nghĩa rằng niệm] chưa
phát sinh, và niệm hoàn tất [có nghĩa rằng niệm] đã chấm
dứt. Trong cả hai trường hợp niệm hoặc tâm đều không
có mặt. Và vì không tâm [nên] giống như không tướng. Làm
cách nào có thể quán chiếu [những trạng thái nầy]?}. (294)
[15b26]
Ðáp: {Mặc dù trong [trạng thái] chưa khởi niệm không có
sự phát sinh chiếm chỗ, nhưng không có nghĩa rằng tuyệt
đối rằng không có [tâm] (295). Tương tự như một người
chưa thể hiện hành động quyết định bất ngờ làm việc
[gì] đó. Ông không thể nói rằng không có người chỉ vì
người ấy chưa tác động. Nếu ông khẳng định rằng không
người hiện diện ở điểm nầy, thì ai là kẻ làm động
tác tiếp theo? Chính vì có người [mà người ấy] ‘chưa
làm’ động tác [nên] có sự làm để động tác bắt đầu.
Niệm hoặc tâm cũng như vậy: có cái chưa khởi niệm để
có cái sắp khởi niệm. Nếu không có cái chưa khởi thì làm
cách nào có cái sắp khởi? . Vì vậy, dù thực sự [tâm ở
trong] trạng thái chưa khởi niệm, thì chưa hoàn toàn có mặt,
nhưng không vì sự kiện nầy mà niệm như một toàn thể thì
hoàn toàn không có (296). Ðối với niệm hoàn tất, vẫn có
thể quán được nó mặc dù [niệm như vậy] đã tan biến,
chỉ như khi một người đã làm xong một hành động, ông
không thể nói rằng người ấy không còn có mặt. Nếu quả
thực không có người hiện diện ở điểm nầy thì ai vừa
mới hành động? Tâm [tư] tan biến khi niệm chấm dứt cũng
như vậy: Ông không thể nói rằng [trạng thái] tan biến là
vĩnh viễn, bởi vì khi nói như vậy là đã rơi vào cái lỗi
chấp thường- tức hoàn toàn phủ nhận nhân quả (297). Vì
vậy, mặc dù đúng là [niệm] trong trạng thái niệm hoàn tất
đã tan biến, sự quán chiếu vẫn có thể được thực hành}.
[15c6]
Vấn: {Cái gọi là quá khứ đã qua, cái gọi là tương lai
chưa đến; và cái gọi là hiện tại không ở lại. Không
thể nào nghĩ rằng có một cái tâm khác ở ngoài ba thời
(298). {Vậy thì] ông khiến chúng tôi quán loại tâm nào?.
[15c8]
Ðáp: {Câu hỏi của ông rất sai lầm. Bởi vì nếu quá khứ
vĩnh viễn hoại diệt, người ta hoàn toàn không biết gì về
nó; nếu tương lai hoàn toàn chưa đến, người ta không thể
biết gì về nó; và nếu hiện tại tuyệt đối không ở lại,
người ta cũng không biết gì về nó. Các bậc thánh làm sao
biết được [các tâm niệm của chúng sinh trong suốt] ba thời?.
Ngay cả quỷ thần cũng có thể biết được [việc làm] của
chính họ và của kẻ khác trong ba thời (299). Tại sao các
hành giả của pháp Phật lại chủ trương như những kẻ chấp
đoạn, chấp lông rùa, sừng thỏ [như trong câu hỏi của ông
đưa ra] (300)?. Hãy biết rằng dù tâm trong ba thời không có
thực tại cụ thể, tuy vậy vẫn có thể biết được nó}.
[15c12]
Như một bài kệ nói: {Những pháp Phật thuyết là dù cho [tâm
niệm] trong ba thời là Không, nó không phải là hoàn toàn bất-hữu,
và dù rằng tiếp diễn, nó không phải là vĩnh viễn không
thay đổi. Vì vậy, chẳng mất [dấu vết] tội lỗi hoặc
công đức (301)}. Những người nắm giữ lối thấy tâm đoạn
diệt giống như một người mù nhìn màu sắc: với người
như vậy sẽ không có cái nhìn quán chiếu xác thực đối
với pháp Phật, và sự thực hành sẽ không có kết quả,
không đưa đến chứng đắc. Một khi hành giả biết rằng
có bốn trạng thái tạm thời của tâm niệm, thì, trong sự
tương ưng với tâm niệm thiện ác từ người nầy phát sinh,
người nầy dùng trí tuệ không vướng mắc để phản tĩnh
và phân minh (302).
Áp
dụng bốn trạng thái tư tưởng vào tất cả các thiện hạnh
[15c17]
Tiếp theo chúng ta nói về sự ứng dụng [sự quán chiếu nầy]
vào các thiện hạnh. [Hình tướng thiện hạnh] thì rất bao
quát, nhưng ở đây chúng ta chỉ nói trên căn bản lục độ
(303). Khi đối diện lục cảnh hành giả không nên sai lệch
và bị trói buộc đối với lục thức. Khi thiếu điều kiện
hành giả nên vào lục hành [để tự giúp mình] (304). Nói
chung, trực tâm [đối với căn] và sự thực hiện [của lục
hành] đưa đến tất cả mười hai sự (shih) tướng.
[15c19]
Lục thức và bố thí ba la mật: Trước hết chúng ta quán
sát khoảnh khắc khi mắt tiếp nhận hình tướng (305). Chưa
thấy, sắp sửa thấy, thấy, và cái thấy hoàn tất- khi bốn
trạng thái thấy nầy chẳng thể hiện- cũng chẳng xác định
rằng người ấy không thấy. Quay sự quán chiếu về tâm tĩnh
giác đối với hình tướng (306), chúng ta thấy rằng nó không
từ bên ngoài lại, vì nếu từ bên ngoài, ảnh tượng sẽ
không có mặt trong người ấy. Nó cũng chẳng từ bên trong
sinh khởi, vì nếu từ bên trong, thì không tùy thuộc vào nhân
và duyên. Vì nó chẳng bắt nguồn từ bên trong hoặc bên ngoài,
cũng chẳng ở giữa. Nó cũng không tự có mặt một cách vĩnh
viễn. Hành giả vì vậy nên biết rằng hành động tiếp nhận
hình tướng vốn không tịch. Sắc tướng được quán chiếu
chẳng khác hư không, và người quán sắc tướng rõ ràng như
không thấy (307).
[15c24]
[Năm thức kia cũng được phân tích như vậy], đến cái thứ
sáu, sự nhận biết các pháp từ cái dụng của thức hoặc
ý. Trong từng trạng thái- chưa biết, sắp biết, biết, và
hoàn tất biết- tư tưởng không có khả năng thông đạt.
Quay sự quán chiếu ngược vào tâm [là cái tâm] giác (chueh)
các pháp (308), chúng ta cũng thấy rằng chẳng từ bên ngoài
đến chẳng từ bên trong sinh. Không có đối tượng của pháp,
không có người có thể nhìn chúng như là pháp; cả hai đều
Không. Quán sáu thức như vậy.
[15c27]
Mắt, hình tướng, hư không, và ánh sáng tất cả đều cần
để sự thấy thành tựu (309), nhưng không một yếu tố nào
trong các yếu tố nầy có thể tự thấy hoặc tự phân biệt.
Nhân và duyên hội tụ phát sinh nhãn thức, trong khi đó nhãn
thức là nhân duyên sinh ra ý thức. Khi ý thức phát sinh, người
ấy có thể phân biệt. Cũng vậy, nhãn thức quay lại chiếm
chỗ trên nền tảng ý thức (310).
[16a1]
Với nhãn thức con người có thể nhìn thấy. Khi thấy, con
người sinh ra tham đắm và nhận sự ô nhiễm của bóng sắc,
làm đổ vỡ những thiện hạnh đã từng gìn giữ- đây là
bốn trạng thái tư tưởng đưa đường địa ngục (311). Trong
thực tế, lòng con người khao khát sắc tướng nhưng tự che
đậy và phủ nhận, đây là chỗ mở ra bốn trạng thái tư
tưởng đưa đường đến cõi ngạ quỷ. Nếu có người cứ
tiếp tục tự trói buộc vào sắc tướng, những kẻ như vậy
toan tính mọi điều chẳng ngoài cái tôi và cái của tôi,
đây là bốn trạng thái tư tưởng đưa đường cõi súc sanh.
Nếu có người phân biệt tướng của riêng tôi và tướng
của người khác, nghĩ rằng: ‘Ta thì sang cả, kẻ ấy thì
bần cùng’, đây là bốn trạng thái tư tưởng mở cửa cõi
A tu la. Nếu có người không tự ý lấy đồ vật của người
(312), và mở rộng tình người, danh dự, công bằng, lòng tin,
và biết rõ [thực tướng] của bóng sắc nầy- tóm lại là
ngũ giới và thập thiện- đây là bốn trạng thái tư tưởng
mở cửa các cõi Người và cõi Trời. Khi quán chiếu bốn
trạng thái tư tưởng, hành giả hướng thẳng vào tánh sinh
diệt của tư tưởng, tánh vô thường của từng niệm, ba
loại cảm thọ (313) trong mỗi niệm, sự thiếu chủ thể trong
mỗi niệm, và biết rằng từng niệm theo nhân duyên mà sinh
khởi (314), thì đây là bốn trạng thái tư tưởng đưa đường
Nhị Thừa.
[16a
8] Khi quán chiếu bốn trạng thái tư tưởng trong chính mình,
hành giả sẽ thấy được những chứng cớ rõ ràng của những
lỗi lầm và khiếm khuyết đã nói. Quán chiếu bốn trạng
thái nầy trong người khác cũng như vậy. Làm như trên, hành
giả sẽ sinh thiện tâm và bi tâm, [là những yếu tố] đưa
đường vào lục độ (315).
[16a
10] Tại sao [phải hành lục độ]? Từ vô lượng thời gian
qua chúng ta đã bám cứng vào [những khái niệm ngây ngô] đối
với tánh chất sáu đối tượng của thức. Khi như vậy, chúng
ta không thể khước từ chúng. Và khi chúng ta muốn khước
từ chúng, chúng ta lại thấy khó mà khiến chúng tiêu tán.
[16a12]
Nếu có người quán cảnh như không-cảnh, thì sẽ không có
ý niệm về cảnh đó; nếu có người quán sáu căn như không-căn,
thì sẽ không bị căn trói buộc; và nếu có người quán người
khác như không thấy [hiểu], thì sẽ không có bất cứ [ý
niệm] gì về người nhận [hiểu]. Sự chứng ngộ tất cả
những yếu tố nầy (316) đều là Không tức ý nghĩa của
bố thí ba la mật (dana-paramita).
[16a
14] Kinh Kim Cang nói: {Nếu có người chấp vào thanh, hương,
vị, xúc, và pháp mà làm việc bố thí, thì gọi là bố thí
trong khi trụ trong sắc tướng, sánh với người vào căn phòng
tối tăm không thể thấy được vật gì. Nhưng nếu không
trụ trong thanh, xúc v.v... gọi là vô tướng bố thí, giống
như người có mắt, thấy được tất cả các hình tướng
phơi trải dưới ánh mặt trời (317).}
[16a
17] Nói một cách đơn giản rằng [Bồ Tát] không thấy bất
cứ hình tướng nào thiếu sót hoặc khó hiểu. Thực sự Bồ
Tát không nhìn hình tướng như gắn liền vào nó hoặc tránh
né nó, hoặc cả hai, hoặc chẳng cả hai. Bất cứ nơi nào
có những hình tướng mà Bồ Tát đã từng bị trói buộc,
Bồ Tát đem nó ra, quăng bỏ khỏi tâm trí của Bồ Tát. Bồ
Tát không làm lớn rộng sáu mươi hai kiến chấp (318) - đây
gọi là ‘vô tướng bố thí’. Khi hành giả, từ chỗ nầy
đến bờ kia, bước vào tất cả các pháp trong pháp bố thí,
và như vậy mà viên mãn pháp Ðại Thừa, đây là chỗ ứng
dụng bốn trạng thái tư tưởng của chư Bồ Tát.
[16a
21] Lại nữa, nếu có người quán bốn trạng thái tư tưởng
đồng như hư không, đây là thường; không thấy chúng là
lạc; không vì chúng tạo nghiệp là ngã; và không vì chúng
mà trở nên ô nhiễm là tịnh. Ðây là chỗ ứng dụng bốn
trạng thái tư tưởng của chư Phật (319).
[16a
23] Mặc dù bốn trạng thái tư tưởng rỗng lặng, người
ta có thể thấy trong tánh rỗng lặng nầy những cách hiển
lộ khác nhau (320) của bốn trạng thái tư tưởng và các pháp
khác cho đến khi họ có thể nhìn thấy pháp Phật khắp nơi
như số cát sông Hằng. Như vậy, cái thấy của Ðại Thừa
thì viên diệu. Ðây là bốn trạng thái tư tưởng của Giả.
[16a
25] Nếu là Không, nó không nên chứa cả mười cõi (321). Vì
những cõi cảnh [trong pháp giới] từ nhân và duyên mà có,
yếu tánh vốn là bất-hữu. Vì không có bất cứ sự có mặt
thực sự nào nên là Không. Nhưng chẳng là Không, mà là có
mặt. Chẳng nắm giữ hoặc Không hoặc Hữu, hành giả sáng
tỏ Không và Hữu. Quán tam đế trong đường lối nầy là
vào tri kiến Phật, và hiểu vẹn toàn bốn trạng thái tư
tưởng. Tam đế vốn tự đầy đủ, và hành giả chứng đắc
được Phật tuệ. Như vậy, qua bốn trạng thái tư tưởng
hành giả đến được cái hiểu viên toàn.
[16a
28] Cùng một đường lối, khi hành giả quán bốn trạng thái
tư tưởng với năm thức còn lại [đối với] thanh, hương,
vị, xúc, và pháp; hành giả như đến được sự chứng ngộ
viên mãn của tam đế bất tư nghị. Chỗ nầy có thể được
hiểu trong tương quan với phần đã nói, và tôi sẽ không
phải đưa thêm chi tiết ở đây (322).
[16b9]
Lục hành và bố thí ba la mật:
Tiếp
theo chúng ta nói về bố thí ba la mật trong khi quán lục hành.
Khi quán chưa nghĩ đến việc đi, sắp sửa đi, đi, và hoàn
tất việc đi, hành giả nhận ra rằng bốn trạng thái đi,
hoặc chậm hoặc nhanh, thì không thể nắm giữ, và ngay cái
không thể nắm giữ nầy cũng không được chấp. Hướng sự
quán chiếu của hành giả về tâm [là cái] hiểu được [tánh]
đi, hành giả biết được rằng nó chẳng từ ngoài đến,
chẳng từ trong sinh, chẳng ở giữa, cũng chẳng luôn tự có
mặt. Chẳng có sự đi cũng chẳng có người đi, cả hai đều
tuyệt đối không tịch.
[16b12]
Dù vậy, vì hoạt dụng của tâm nên có đi, có đến. Sự
đến đi nầy có thể với mục đích phạm vào giới luật
(323), hoặc lừa gạt người khác, hoặc lập thành bè phái,
hoặc làm thành sự cao cả hơn người, hoặc có thể vì mục
đích đức hạnh và danh dự, hoặc làm những thiện hạnh
và thiền định (324), hoặc để chứng Niết Bàn, hoặc để
tu tập từ bi. Khi chúng ta vào lục hành làm lớn mạnh sự
không bị trói buộc vào sáu cảnh, thì những hoạt dụng phương
tiện như đến và đi, đưa chân lên xuống chẳng khác nào
những bóng dáng huyễn hoặc. Vào hoặc ra (325), hành giả quên
ngã quên nhân. Trên cuộc hành trình ngàn dặm người nầy
sẽ không còn thấy quá xa; cũng chẳng gần trong gang tấc.
Bất cứ khi nào người ấy gặp gỡ điều gì, người ấy
chẳng lượng công đức cũng chẳng tính báo đền. Trụ trong
pháp bố thí như vậy, người ấy hội nhập được toàn thể
Phật pháp, nhiều như cát sông Hằng. Người ấy tương ưng
với pháp Ðại Thừa, và có thể đến được bờ kia.
[16b19]
Lại nữa, khi quán chiếu mỗi [bước đi], người ấy thấy
được rằng mười phương [pháp giới] gồm thu đầy đủ
trong đó. Nhất niệm nầy không phải là vô vi, vì vậy nên
là mười pháp giới. Mười mà không phải là mười nên có
thể là một. Chẳng một, chẳng mười mà là một, là mười.
Như vậy tam đế gồm thu trong nhất niệm.
[16b22]
Vì đứng, ngồi, nằm, nói, im, và những hành động khác,
cũng giống [như đi]. Tất cả có thể được hiểu trong tương
quan với những bài giảng trước. Kinh Pháp Hoa vì vậy nói
rằng: {Ta lại thấy những người con của Phật dâng y phục
trang nhã để cầu Phật đạo qua hạnh bố thí (326)}. Chỗ
nầy cũng không khác những bài đã thuyết giảng.
[16b24]
Năm ba la mật khác trong lục căn và lục hành:
Trong
những lần trước chúng ta đã nói về mười hai mục (327)
dưới tựa đề bố thí ba la mật. Chúng ta sẽ nói ở đây,
theo thứ tự, [đầy đủ tất cả] lục độ đối với từng
mục trong mười hai đề mục (328).
[16b26]
Khi hành giả bước đi (329), người ấy nhìn chúng sinh với
cái nhìn đại bi, không vì hình tướng thế tục của họ.
Khi được như vậy thì chúng sinh đến gần Bồ Tát mà không
e sợ. Ðây là hành bố thí [ba la mật] trong khi đi. Người
ấy không làm tổn hại chúng sinh nào mà cũng không chấp giữ
tội lỗi hoặc đức hạnh của họ. Ðây gọi là trì giới
[ba la mật]. Khi người ấy bước đi, tâm không động niệm;
người ấy cũng không khổ sở khó khăn hoặc trụ ở một
nơi chốn đặc biệt nào. Các uẩn, căn, cảnh cũng không xáo
trộn (330). Ðây gọi là nhẫn nhục [ba la mật]. Khi bước
đi, người ấy không bận tâm về bước chân cao thấp. Trong
tâm người ấy không hề khởi sự suy tư về bất cứ điều
gì để kết thúc bằng cách hiểu ra điều gì (331). Với người
ấy, các pháp không sinh, không trụ, cũng không diệt (332).
Ðây gọi là tinh tấn [ba la mật]. Người ấy không chấp thân
tâm, sinh tử hoặc Niết Bàn (333). Với vạn pháp, người ấy
không thọ nhận, nghĩ ngợi, hoặc làm lớn rộng vòng trói
buộc. Người ấy chẳng cầu [Niết Bàn] cũng chẳng sa vào
mê muội [trong luân hồi] (334). Ðây gọi là thiền định [ba
la mật]. Khi bước đi, đầu và sáu phần thân thể người
ấy như mây, như bóng, như mộng, như ảnh, như vang, như vọng,
không sinh hoặc hoại, không diệt hoặc thường (335). Người
ấy biết được rằng căn, cảnh là không tịch, và chính
mình chẳng trói buộc cũng chẳng giải thoát. Ðây gọi là
trí tuệ [ba la mật]. Chi tiết được thuyết trong kinh ‘Thủ
Lăng Nghiêm Tam Muội’ (336).
[16c7]
Chư Bồ Tát tịch lặng và tương ứng với thể tánh của
tam muội ngay cả trong mỗi bước đi (337). Nhưng nếu không
suy gẫm thấu đáo, hành giả có thể sinh lòng tham đắm tam
muội và đeo đẳng lạc thú trong thiền định. Nếu lúc nầy
hành giả biết quán tâm [trong] tam muội nầy, hành giả sẽ
chứng ngộ rằng không có bất cứ tâm nào đối với tâm
nầy. Vậy thì, cái định [từ tam muội] nầy ở đâu? (338).
Cho nên biết rằng [tất cả khái niệm về] tam muội nầy
sinh từ những cái thấy trái nghịch. Khi hành giả quán như
vậy, thấy được rằng chẳng Không cũng chẳng Bất-Không.
Tất cả những ngôn từ của tam muội ngay đó bị xóa bỏ,
và không còn dính mắc. Sinh hoặc khởi như phương tiện (339),
đây là sự liễu ngộ về tam muội của Bồ Tát.
[16c11]
Nếu hành giả chưa tĩnh giác vững vàng, người nầy có thể
ghi nhớ năng lực quán chiếu của mình, tự nhủ rằng: ‘tâm
của tôi thông thái tuyệt vời’. Vướng mắc vào cái ý tưởng
về trí tuệ của mình, người nầy tự cho rằng mình là tối
thượng. Ðây gọi là sở tri chướng (340). Cũng như vậy đối
với những người đi vào những con đường không phải là
đường Phật, những người ấy không đạt đến giải thoát.
Nhưng nếu có người phản tĩnh tâm nầy nó là một thành
phần của sự quán chiếu, người ấy sẽ thấy rằng nó không
trụ ở đâu cả, và hoàn toàn không sinh diệt. Một cách rốt
ráo, chẳng có người-quán cũng chẳng có không-người-quán.
Người quán là không-hiện-hữu, thì ai quán các pháp?. Không
nắm giữ cái tâm quán, nơi đó hành giả bỏ lại tất cả
ý tưởng về quán chiếu.
[16c15]
Kinh Ðại Tập nói: {Một khi tư tưởng và thị phi đã được
quản thúc, tất cả tâm phát sinh hí luận đều vào chỗ đoạn
diệt. Ở đó, vô số tội lỗi tan biến, và tịnh tâm hiển
lộ trong cái Một vĩnh hằng. Những ai chứng đắc vi diệu
như vậy chúng ta nhìn như những người có thể thấy được
bát nhã (341)}.
[16c17]
Kinh Ðại Tập cũng không nói khác: {Quán cái tâm [được quán]
và cái tâm [quán] (342)}. Thực hành như vậy tức có đủ ba
tam muội (343). Trong pháp quán thứ nhất, hành giả xa lìa những
hiện tượng thế tục, không chấp trong ngoài- đây gọi là
Không tam muội. Trong pháp quán thứ hai, hành giả có thể diệt
tướng Không- đây gọi là vô tướng tam muội. Trong pháp quán
sau cùng, ngay cả người làm [việc quán chiếu] hành giả cũng
không chấp- đây gọi là vô tác tam muội. Xa hơn, bằng cách
diệt tam điên đảo (344) và tam độc, vượt qua dòng suối
của ba cõi hữu, điều phục bốn chúng ma, hành giả vào được
lục độ (345). Làm sao sự bao trùm toàn thể pháp giới cũng
như tiến trình mở rộng [đạo pháp] đến chỗ thuần thục
tất cả pháp môn khả dĩ kết thúc với lục độ và tam muội?.
Chỉ như hành giả có thể viên dung vạn pháp trong mỗi bước
đi, cũng như vậy đối với mười một đề mục còn lại.
[16c24]
Trì Giới (sila) ba la mật :
Tiếp
theo, khi đối diện sáu cảnh, Bồ Tát chiến đấu chống lại
sức cám dỗ của chúng, và giữ tâm kiên cố, [xa lìa và như
không để tâm đến các loại tư tưởng điên đảo] như Bồ
tát đang mang trên tay một chiếc bình đầy ắp dầu mà không
để nhiễu ra ngoài một giọt (346). Cũng như khi bước vào
lục hành, Bồ Tát cũng hành xử như vậy, đến và đi trong
đường lối vẹn toàn. Ðây gọi là quán sát giới hạnh.
Thiện nghiệp giữ gìn giới hạnh sinh trong đời vị lai ở
một cõi cao hơn, hưởng được an vui. Không có tam muội thì
không được gọi là ‘ba la mật’. Tuy nhiên, nếu hành giả
chứng được trí tuệ sinh ra từ quán huệ (kuan-hui), giới
hạnh sẽ tự viên mật trong mười hai hành.
[16c28]
Ðược nói rằng khi hành giả quán bốn trạng thái của tướng
chưa thấy, tướng sắp thấy, tướng đang thấy, và tướng
đã thấy, và suy gẫm về chúng trong những đường hướng
khác nhau [của bốn loại], chẳng niệm dấy lên, chẳng tâm
quán chiếu có thể nắm giữ (347). Tâm chẳng trong, chẳng
ngoài, chẳng đến, chẳng đi (348). Ðó là tịch tĩnh và vô
sinh diệt.
[17a
2] Nếu, trong đường lối nầy, hành giả có thể quán (349)
bảy tà hạnh của thân và khẩu (350) thanh tịnh như hư không,
thì đây là quán sát ba loại đức hạnh: viên toàn, không
hư hoại, và không xuyên thấu (351). Tiêu diệt tất cả những
lối thấy hiểu sai lệch qua bốn trạng thái tư tưởng là
quán sát giới hạnh tinh ròng. Không nên lẩn lộn với bốn
trạng thái tư tưởng quán sát giới hạnh theo với tam muội.
Vì bốn trạng thái tư tưởng không hề sinh khởi là quán
sát giới hạnh theo tu đạo. Ðể có thể minh bạch trong những
hiển lộ khác nhau của bốn trạng thái tư tưởng không trở
nên trì trệ qua những phân biệt nầy tức quán sát những
giới hạnh không cố chấp. Minh định bốn trạng thái tư
tưởng một cách chính xác tức quán sát những giới hạnh
hun đúc từ trí tuệ. Hiểu được bốn trạng thái tư tưởng
gồm thu vạn pháp như thế nào tức quán sát những giới hạnh
tự đứng vững của Ðại Thừa. Biết được bốn tánh đức
[giác ngộ] trong bốn trạng thái tư tưởng tức quán sát giới
hạnh viên mãn.
[17a
9] Một khi tâm trở nên rõ ràng và không ô uế, thì cùng lúc
vượt qua hai cực đoan [Không và Giả] để vào được Trung
Ðạo (352). Hành giả đồng thời làm sáng tỏ hai cực đoan
nầy. Phật giới bất khả tư nghị viên toàn và sau đó không
hề suy giảm.
[17a
11] Người nhận biết hình tướng, hình tướng là pháp ( hoặc
đối tượng), và hành động nhận biết giống như không thể
nắm giữ. Tất cả ba đều tan biến [khi được quán chiếu]
tức bố thí [viên mãn]. Ðể tâm trí được không bị ngăn
ngại vì hình tướng và người tiếp nhận hình tướng gọi
là nhẫn nhục [viên mãn]. Không bị ô nhiễm do hình tướng
và người tiếp nhận hình tướng gọi là tinh tấn [viên mãn].
Không bị ném vào sự nhầm lẩn bởi hình tướng và người
tiếp nhận hình tướng gọi là thiền định [viên mãn]. Và
thấy hình tướng cùng người tiếp nhận hình tướng như
huyễn ảo thì gọi là trí tuệ [viên mãn].
[17a
16] Nhìn hình tướng và người tiếp nhận hình tướng (353)
giống như hư không thì gọi là Không tam muội, [tam muội đầu
tiên trong ba tam muội]. Không chấp vào cái Không nầy thì gọi
là vô tướng tam muội. Vắng bặt cả hai chủ thể và đối
tượng thì gọi là vô tác tam muội. Không những chỉ có tam
đế, lục độ, và tam Không (354), mà vô số pháp Phật như
số cát sông Hằng cũng được hiểu tương tự như vậy. Quán
chiếu sắc trong đường lối nầy, năm phần kia cũng nên hiểu
[được quán] cùng phương pháp, như lục thức và lục hnh.
Cũng vậy, kinh Pháp Hoa nói: {Tôi cũng thấy những người con
của Phật, tín thành quán sát giới hạnh của họ để cầu
đạo Bồ Ðề}(355).
[17a
20] Nhẫn nhục (ksanti) ba la mật:
Tiếp
theo, chúng ta nói về [pháp quán] áp dụng vào thiện hạnh
nhẫn nhục. Phản ảnh lục hành và lục thức, rõ ràng rằng
có nghịch có thuận. Thuận có nghĩa rằng những sự kiện
tiến triển như chúng ta mong muốn, và nghịch có nghĩa rằng
sự kiện tiến triển không như chúng ta mong muốn. Bồ Tát
không nổi sân khi trái ý, cũng không bị trói buộc khi vừa
lòng. Bởi vì với Bồ Tát, chẳng cái thấy, chẳng người
thấy, chẳng cái làm, chẳng người làm. Tất cả những điều
khác có thể được nói như phần nhẫn nhục đã được thuyết
ở trên.
[17a
23] Tinh tấn (virya) ba la mật :
Tiếp
theo, chúng ta nói về [pháp quán] áp dụng vào thiện hạnh
tinh tấn. Như đã từng nói: {tinh tấn không có hình tướng
lạ lùng gì, mà chỉ là làm một cách tinh cần những gì đang
làm}(356). Tuy nhiên, khi suy tư sâu rộng ý nghĩa những pháp
thực hành khác, hành giả nên nghĩ rằng nó có một sự biệt
thù (357). Tương tự như vô minh, là cái thấm vào tất cả
những phiền não vụn vặt khác, và đứng như một phiền
não biệt lập gọi là ‘vô minh’.
[17a
25] Giờ đây, nếu có người dựa vào lời kinh để điều
phục tâm của người ấy, thì đây có thể được xem như
là một thí dụ về tinh tấn. Nhưng dù cho người ấy làm
việc nầy suốt cả ngày và đêm không trì trệ, tụng đọc
thông thạo, vẫn không phải là từ tam muội hoặc trí tuệ.
Nhưng nếu có người quán hơi thở [trong khi tụng đọc], người
ấy sẽ thấy rằng từ sự va chạm bảy nơi trong cơ thể,
phát ra âm thinh như tiếng vang. [Âm thinh nầy] chẳng từ trong,
chẳng từ ngoài, chẳng người đọc tụng, chẳng cái được
đọc tụng. Nếu tất cả những điều nầy được suy gẩm
qua bốn [trạng thái tư tưởng chuyển động], người ấy
sẽ không giả định có người tiếp nhận âm thinh, chẳng
người làm ra âm thinh, qua những nhân duyên hội tụ nầy.
Nếu người ấy tụng lời kinh với tâm không bị vướng víu
bởi phiền não, thì mỗi dòng tư tưởng sẽ trôi vào biển
lớn Niết Bàn. Ðây là cái gọi là tinh tấn.
[17b1]
Thiền định (dhyana) ba la mật:
Tiếp
theo, chúng ta sẽ nói về sự áp dụng [những pháp quán] đối
với các hình thức thiền khác nhau. [Thiền] căn bản, chín
pháp thiền về sự chết, tám pháp giải thoát, và những cái
khác, tất cả đều là thiền định thuộc nhân địa (358).
Những pháp nầy không phải là thiền ba la mật. Tuy nhiên,
nếu có người quán bốn trạng thái tư tưởng vào được
tam muội, người ấy sẽ thấy được tâm bất khả đắc.
Vậy thì, cái gì được xem là vị trí của tam muội nầy?.
Ở điểm nầy, đó là chân tánh thiền định được nhận
ra, và thiền định bao trùm tất cả các pháp khác (359). Ðiều
nầy để nói rằng, trong tiểu đoạn thứ năm của Ðại Tập,
sau khi làm sáng tỏ tám pháp thiền về sự chết, tác giả
giải thích tất cả các pháp, gồm thập lực và tứ vô úy
(360). Ngày nay, các bậc luận sư không nắm được ý nghĩa
sâu thẳm của đoạn văn nầy. Họ đều nói rằng kinh luận
có lỗi, nhưng họ không nên nói như vậy (361). Sở dĩ tác
giả Ðại Tập giải thích tất cả các pháp chi tiết đến
như vậy là để cho thấy tám pháp thiền về sự chết đưa
ra phẩm tánh Ðại Thừa.
[17b7]
Trí tuệ (prajna) ba la mật:
Tiếp
theo, chúng ta sẽ nói đến sự áp dụng [những pháp quán]
đối với trí tuệ. Trong Ðại Tập, trí bát nhã được hiểu
tám cách (362). Giờ đây, trí của cõi người có thể được
dùng để quán lục thức và lục hành. Nếu có người phân
tích nhất thế trí (363) bằng những phương tiện của bốn
trạng thái tư tưởng, người ấy sẽ thấy rằng bất khả
đắc. Như đã giải thích ở phần trên; và cũng như vậy
đối với những thiện pháp và thiện hành khác (364).
[17b10]
Vấn: {Nếu như ông nói rằng một pháp bao gồm vạn pháp,
thì một pháp Quán là đủ. Tại sao lại cần thêm Chỉ? Một
độ là đủ, tại sao lại cần thêm năm độ kia?.}
[17b11]
Ðáp: {Lục độ làm viên toàn lẩn nhau. Giống như các chiến
sĩ phải liên kết với nhau khi họ ra trận đối diện quân
địch. Quán giống như một ngọn đèn, và Chỉ giống như
một căn phòng đóng kín; cũng giống như giặt và xả quần
áo; hoặc như nắm và cắt cỏ (365). Cũng đúng [khi nói rằng]
trí tuệ ba la mật chính nó là pháp giới và bao gồm tất
cả. Từ điểm chính nầy không cần đến các pháp khác. Nhưng
các pháp khác cũng là pháp giới. Mỗi một pháp cũng bao gồm
tất cả trong chính nó, và không cần đến trí tuệ, vì, một
cách rốt ráo, trí tuệ ba la mật tức tất cả những pháp
khác, và mỗi một pháp nầy tức trí tuệ ba la mật. Không
nhị nguyên, không khác biệt giữa các pháp.
Quán
thẳng vào các tà pháp
[17b16]
Thứ ba, chúng ta nói về tư tưởng con người đối với các
tà hạnh.
[17b17]
Bây giờ [nói về] thiện và ác không có tánh cố định. Thí
dụ, sự mờ mịt (366) được xem là ác, và sự vẹn toàn,
được thực hiện ở thứ bậc sự tướng, được nghĩ là
thiện. Nhưng khi nghiệp báo [từ hạt giống lành nầy] khô
cạn trong cõi trời người, kẻ kia hơn một lần rơi trở
lại các cõi bùn lầy. Như vậy, [có thể nói rằng] đó là
ác (367). Tại sao?. Bởi vì chẳng phải [ở trong] mờ mịt
cũng chẳng phải [thực hành sự tướng] vẹn toàn có thể
khiến người ấy thoát vòng sinh tử. Như vậy, cả hai đều
là ‘ác’.
[17b19]
Bây giờ [nói về] Nhị Thừa cứu người thoát khổ, đó là
lý do họ được gọi là ‘thiện’. Mặc dù Nhị Thừa là
‘thiện’, họ chỉ có thể đưa đến sự giải thoát cho
riêng cá nhân. Vì thế, họ không đưa đến phẩm tánh con
người ‘chân thiện’ (368).
[17b20]
Kinh Ðại Tập nói: {Tôi chẳng thà làm kẻ xấu hoặc làm
con chồn bệnh hoạn hơn là trở thành một bậc Thanh Văn hoặc
Duyên Giác}(369). Thì các ông nên thấy rằng luân hồi hoặc
Niết Bàn [ở đây] đều là ‘bất thiện’. Cái chúng ta
gọi là ‘thiện’ là các Bồ Tát với lục độ, là những
người nếu không vì lòng từ và bi, thực hành pháp giải
thoát cho cả hai [chính họ và người khác], dù rằng họ có
thể cứu chính họ và cứu người khác, điều họ làm sánh
với người dự trử thức ăn trong một cái hộp có chất
độc, có thể làm chết bất cứ ai ăn phải [thức ăn nầy]
(370). Chỗ nầy cũng là ‘bất thiện’.
[17b24]
Tam Thừa giống như diệt được phiền não, và được nhìn
là ‘thiện’. Nhưng họ thất bại trong sự lãnh hội nguyên
lý (371) [tinh túy trung đạo] và trở lại một trong hai cực
đoan [hoặc với Không hoặc với Giả]. Chẳng bỏ ra được
[căn bản] vô minh nầy, họ vẫn còn là ‘bất thiện’.
[17b25]
Biệt Giáo là ‘thiện’. Tuy nhiên, dù rằng hành giả ở
thứ bậc nầy giác được lý [trung đạo], họ tiếp tục
áp dụng phương tiện, và chưa thể đến [trực tiếp] với
nguyên lý. Kinh Niết Bàn nói: {Ðến chỗ nầy, tất cả có
thể được nhìn như những kẻ nắm giữ cái thấy sai lầm
(372).} ‘Cái thấy sai lầm’ chẳng phải là ‘bất thiện’
ư ?.
[17b28]
Chỉ riêng pháp Viên [Giáo] được gọi là ‘thiện’. Bất
cứ điều gì hợp với thực tướng (shih-hsiang) thì gọi là
‘Ðạo’, và bất cứ điều gì trái nghịch với thực tướng
thì gọi là ‘Vô Ðạo’ (373). Nhưng nếu có người đạt
đến chỗ chứng ngộ rằng bất thiện pháp chẳng phải là
bất thiện, tất cả đều là thực tướng, thì người ấy
đạt Phật đạo từ thực hành pháp vô đạo (374). Mặt khác,
nếu có người tự vướng mắc vào pháp Phật, không thể
phá cái chấp vào thánh vị, thì đạo trở thành vô đạo.
[17c2]
Khi thiện và ác được luận một cách tổng quát, rốt ráo
là một. Chúng ta sẽ nói về sự khác biệt [của chúng] (375).
Ðiều nầy để nói rằng, sự viên toàn ở mức độ sự
tướng được nhìn là ‘thiện’, và sự ngăn ngại là ‘bất
thiện’. Tuy nhiên, đã nói về quán thiện pháp, bây giờ
chúng ta tiếp tục làm sáng tỏ về quán tà pháp.
[17c4]
Cái Tâm quán tà pháp:
Không
kể đến nổ lực quán chiếu thiện pháp của hành giả đã
nói ở trên, những sự tối tăm có thể chưa ngừng [hoạt
động]. Thay vì vậy, tăng trưởng hơn lên [dường như ] khó
có được một khoảnh khắc nào mà phiền não không phát khởi
trong tâm trí. Nếu có người liên tục quán sát tâm của người
khác, những tà pháp chắc chắn sẽ xuất hiện không lấy
chi mà lường được. Thí dụ, nếu có người hành thiền,
nhìn thế gian chẳng có gì vui thú (376), người ấy nghĩ rằng
chẳng có người thiện cũng chẳng nơi đâu là đất lành
(377). Những gì người ấy thấy chỉ là tối tăm mù mịt,
và thấy chính mình hoàn toàn dính chặt trong đó.
[17c8]
Dù rằng có những người không mê muội, nhưng có thể phạm
vào tà [hạnh] vì một ảnh hưởng nào đó. Có những người
cực kỳ tham lam và dâm đãng, và có những người vi phạm
đạo đức, hiềm thù, biếng nhác, hoặc tinh thần say sưa
bạc nhược. Dễ dàng mất đi phẩm cách (378), họ không tránh
được những bất hạnh. Trong chúng ta, ai là người chẳng
có những thất bại nầy?.
[17c10]
Có những người bỏ đời sống tại gia và xa lìa thế tục,
nhưng lại là những kẻ không tu hành, và cũng như người
thế gian, họ tiếp tục hưởng dục lạc, họ không phải
là những hành giả chân thực. Tà pháp là bè lũ của họ,
dù họ có chứng được quả vị A la hán đi nữa thì họ
vẫn tiếp tục [chịu ảnh hưởng] của tập khí ô nhiễm.
Người thế gian có khác là bao? . Nếu có kẻ phàm phu (prthajana)
phạm vào tà hạnh, người ấy có thể chôn vùi [nhiều kiếp]
rơi vào [một trong các cõi hạ tiện], ở lại đó rất lâu
mà khó có hy vọng thoát ra. Ðó là lý do tại sao chúng ta phải
tu tập quán huệ (kuan-hui) thẳng vào tà pháp.
[17c13]
Lấy thí dụ từ những cư sĩ tại gia trong thời Phật Thích
Ca tại thế: có những người gánh nặng trách nhiệm với
vợ, con; có những người liên quan đến phận sự điều hành
hoặc giao thương; nhưng tất cả đều có thể đạt đạo.
Trường hợp của Ương quật ma la (Agulimaliya), tin rằng càng
giết được nhiều người thì thiện hạnh càng tăng (379).
Họ Kỳ (Jeta) uống rượu, và Mạt Lỵ (Makika) mang rượu cho
người, nhưng lại là những kẻ giữ gìn đạo đức (380).
Bà Tu Mật Ða (Vasumitra) là người thanh tịnh, dù rằng bà
cùng người nam giao hợp (381), và tà kiến của Ðề Bà Ðạt
Ða (Devadatta) thực sự là chánh kiến (382).
[17c16]
Nếu ở giữa tà pháp, tất cả mọi điều đều là tà, thì
không thể nào thực hành đạo được, và người tu vĩnh viễn
không thể giác ngộ. Nhưng vì đạo là cái ngay trong tà pháp
tối tăm cũng có thể chứng đắc thánh [hạnh]. Vì vậy, phải
biết rằng những mê trầm đó không thể ngăn chận được
đạo (383). Ðạo cũng không chướng ngại tà pháp. Thí dụ,
những mong muốn thân của Tu Ðà Hoàn sinh và sinh (384); Dư
Tập (Pilindavatsa) vẫn là kẻ ngây ngô dù là một tăng sĩ
(385); và ngài Xá Lợi Phất (Sariputra) vẫn có lúc giận dữ
(386). Với pháp vô nhiễm, ảnh hưởng khả dĩ nào- hư hoại
hoặc ngược lại- những lỗi lầm như vậy có thể có? .
Giống như trò chơi sáng và tối trong hư không, nơi mà cái
nầy không loại bỏ cái kia. Ðây là ý tưởng bên cạnh sự
giác ngộ của một vị Phật. (387)
[17c22]
Nếu có người, căn tánh rất ư tham lam, và nhìn mọi vật
[với cái nhìn] ô uế- đến đổi dù cho người ấy cố sức
đối trị và đè nén, những vọng dục nầy vẫn cứ gia tăng
vượt bực- thì người ấy chỉ đi theo bất cứ nơi nào người
ấy muốn. Tại sao? Bởi vì không có chướng ngại, người
ấy sẽ không có cơ hội để thực tập quán chiếu (388).
[17c24]
Giống như câu cá. Nếu cá mạnh và sợi dây câu yếu, thì
không kéo nổi cá lên bờ (389). Thay vì vậy, nếu có người
chỉ chờ cho lưỡi câu mắc vào miệng cá, và tùy theo con
vật cách bao xa, để tự ý nó chìm nổi với nước, thì chẳng
bao lâu nó sẽ bị giữ lại và đưa vào bờ (390). Sự thực
hành pháp quán trên căn bản chướng ngại cũng rất giống
như vậy. Con cá bướng bỉnh nầy tượng trưng cho chướng
ngại, và lưỡi câu là pháp quán chiếu. Nếu không có cá
thì cũng không cần đến lưỡi câu hoặc miếng mồi. Số
cá càng nhiều, càng tốt (391). Tất cả sẽ xuôi theo sau khi
mắc mồi, không có đường thoát. Cũng vậy, những chướng
ngại sẽ chẳng bao lâu tan biến và đưa đến chỗ quản thúc.
[17c29]
Áp dụng bốn trạng thái vào sự ngăn che của dục vọng:
Pháp
quán nầy được tu tập như thế nào? (392) Nếu một ái dục
phát sinh, thì quán ngay vào bốn trạng thái: chưa ái, sắp
ái, đang ái, và hết ái (393). Ðể cho sắp-ái phát khởi,
chưa-ái cần phải diệt đi?. Ðể cho sắp-ái phát khởi, chưa-ái
không cần phải diệt đi?. Cả hai diệt và không diệt, hoặc
chẳng diệt chẳng không diệt? (394).
[18a
4] Nếu chưa-ái diệt để cho sắp-ái sinh, thì diệt và sinh
hợp hay là ly (395)?. Nếu hợp, thì chúng ta có sự mâu thuẩn
vì sinh diệt cùng lúc. Nếu ly, thì sinh thiếu nhân (396).
[18a
6] Nếu chưa-ái không diệt để cho sắp-ái sinh, thì hai cái
nầy hợp hay ly? Nếu hợp thì cả hai cùng có mặt, và sẽ
không có giới hạn đối với nguồn gốc của những thực
tại mới (397). Nếu ly, thì sinh cũng lại thiếu nhân.
[18a
7] Nếu nói rằng chưa-ái có cả hai diệt và chẳng diệt khi
sắp-ái sinh, nếu sự sinh [của sắp-ái] có thể chiếm chỗ
với diệt [của chưa-ái], thì sự bao gồm [yếu tố thứ hai]
chưa-diệt không có lý. Cũng vậy, nếu sinh có thể xảy ra
qua cái không-diệt, thì nói đến diệt là vô lý (398). Làm
cách nào một bất định nhân như vậy sinh ra một định quả?.
Ngay cả nếu diệt và bất-diệt của chưa-thích cùng bản
thể (substance), chúng cũng khác nền tảng (fundamental nature),
trong khi đó, nếu chúng khác bản thể, thì giữa chúng chẳng
có sự tương quan.
[18a
11] Giả định rằng chưa-ái phải là chẳng diệt chẳng không
diệt khi sắp-ái sinh, thì vị thế của hai lần phủ định
nầy là hữu hoặc bất-hữu?. Nếu là hữu thì tại sao chúng
ta lại nói rằng nó là hai lần phủ định?. Nếu là bất
hữu, thì làm sao bất hữu lại có khả năng sinh ra bất cứ
vật gì?.
[18a
13] Cũng như vậy, áp dụng vào bốn trạng thái tư tưởng,
hành giả không thể lấy cái sinh của sắp-ái (399). Lại khi
[phân tích nửa phần còn lại] theo bốn trạng thái, thì sắp-ái
không thể được thấy là sinh, chẳng sinh, cả hai sinh và
chẳng sinh, hoặc chẳng sinh chẳng không sinh khi chưa-ái diệt
(400). Chỗ nầy đã được thuyết ở trên. Quán chiếu như
vậy, thấy được rằng sự tham mê mù mịt tuyệt đối không
tịch. Tánh chiếu soi đồng thời [của nhị đế] cũng rỡ
ràng (401). Chỗ nầy cũng đã được nói đến ở trên. Ðây
là cái chúng ta gọi là mồi câu. Bất cứ khi nào chướng
ngại phát sinh, pháp quán nầy sẽ luôn chiếu soi chúng (402).
Mặc dù các ông sẽ thấy rằng chẳng có sinh chẳng có chiếu,
tuy vậy, chúng là có sinh lẩn chiếu.
[18a
18] Lại nữa, trong pháp quán sự ngăn che của ái dục, hãy
nhìn từ cảnh nào nó phát khởi. Có phải từ hình tướng?
Có phải từ một trong sáu cái? Cũng nhìn từ tác dụng nào
nó phát sinh. Có phải từ bước chân đi? Có phải từ một
trong sáu cái?. Nếu nó đã sinh ra trong khi đáp ứng với sự
thấy hình tướng, nó là sự đáp ứng với hình tướng chưa-thấy,
sắp-thấy, đang-thấy, hoặc đã thấy?. Nếu nó đã sinh trong
khi đáp ứng với hình tướng đi, thì nó đáp ứng với chưa-đi,
sắp-đi, đang-đi, hoặc đã-đi?.
[18a
20] Cái gì là đối tượng thuộc hiện tượng từ đó ái
dục phát sinh? Có phải từ sự gãy đổ của quy luật đạo
đức? Từ ảnh hưởng của đám đông? Từ lòng đố kỵ?
Từ lòng tử tế và xưng tán? Từ lòng ưa thích điều thiện
hoặc thiền định? Vì Niết Bàn vời vợi? Vì bốn thánh hạnh?
(403). Vì lục độ? Vì ba tam muội? (404). Vì pháp Phật nhiều
như cát sông Hằng? (405).
[18a
24] Nếu có người quán như vậy, người ấy sẽ nhận ra rằng
không hề có người tiếp nhận cảnh, và không có chủ thể
hành động trên những trạng huống [nhận biết của tinh thần].
Và dù như vậy, sự chiếu soi cùng lúc (406) giữa cảnh và
người tiếp nhận, ý căn và những trợ duyên cũng sáng tỏ.
[Ba lối nhìn ái dục] như ảo ảnh, như Không, và như pháp
tánh chân thực thì không ngăn ngại nhau (407). Tại sao? Vì
nếu những sự tối tăm làm trở ngại pháp tánh, nó sẽ liên
quan đến sự hư hoại pháp tánh, trong khi đó, nếu pháp tánh
ngăn trở sự tối tăm, thì nó hoàn toàn không thể sinh khởi.
Vì thế, phải biết rằng sự tối tăm chính nó tức pháp
tánh. Khi cái u mê phát sinh, đó là chính pháp tánh phát sinh,
và khi cái u mê dừng lại thì cũng chính pháp tánh dừng lại
(408).
[18a
29] Kinh ‘Nhất thiết pháp vô sinh’ (Sarva-dharma-pravrtti-nirdesa)
nói: {Tham dục tức đạo, sân và si cũng như vậy. Tất cả
pháp Phật chứa đựng trong ba pháp nầy. Nếu có người cầu
giác ngộ bên ngoài ái dục, người ấy cách xa nó như đất
xa trời (409)}. Tham dục tức giác ngộ.
[18b2]
Kinh Duy Ma Cật nói: {Ði theo vô-đạo, Bồ Tát đến được
Phật đạo (410)}. {Tất cả chúng sinh vốn đồng với tướng
giác ngộ nên không thể chứng đắc hơn nữa; vốn đồng
với tướng Niết Bàn nên không thể diệt gì thêm (411)}. {Với
những kẻ tự phụ Phật dạy rằng xa lìa tham, sân, si gọi
là giải thoát. Nhưng với những người không kiêu mạn, Phật
dạy rằng tánh của tham, sân, si đồng với giải thoát (412)}.
{Ô nhiễm là hạt giống Như Lai (413)}.
[18b7]
Màu của núi và vị của biển luôn như nhau. Chính vì vậy,
các ông phải quán rằng tất cả tà pháp như nguyên lý bất
khả tư nghị (414). Nếu có người thường phát huy quán huệ
(kuan-hui), những mê muội và nguyên lý sẽ hòa âm trong nhau,
như hình với bóng. Ðây gọi là quán hành tức (415). Người
có thể thấy được tất cả tà pháp và các phương tiện
sinh hoạt của thế gian không đối nghịch với thực tướng
thì gọi là tương tự tức (416). Tiến xa hơn, người ấy
có thể vào được cổ xe đồng (417) và khởi sự diệt gốc
rễ mông muội. Gốc rễ đó là vô minh. Khi đã nhổ gốc [vô
minh], cái thấy được Phật tánh sẽ bộc lộ. Ðây gọi là
phần chứng tức (418). Sau cùng, như một vị Phật, hoàn toàn
diệt nguồn cội vô minh- đây gọi là cứu cánh tức. Trong
tham dục đã chứa đựng, theo đường dọc, tất cả lục
tức; và theo đường ngang, tất cả lục độ. Ðiều nầy
đúng cho tất cả các pháp (419).
[18b14]
Kế tiếp, chúng ta sẽ nói về cách quán chiếu sự ngăn ngại
do sân hận (420). Có những người cực kỳ nóng nảy, không
ngừng chìm nổi với cảm xúc, và rất dễ nổi giận đến
không thể kềm giữ được chính họ dù trong chốc lát. Những
người như vậy nên cho phép cơn giận của mình tự nhiên
phát khởi để [từ đó] có thể chiếu soi nó bằng pháp Chỉ
và Quán. Khi quán bốn trạng thái của cơn giận dữ, nên đặt
câu hỏi nó từ đâu đến. Nếu không nắm được cái sinh
ra nó thì cái diệt cũng vậy (421). Rồi thì người ấy quán
sát tất cả mười hai mục (422), hỏi vì ai mà cơn giận phát
khởi, ai là người giận, và ai là đối tượng của cơn giận.
Quán như vậy, người ấy sẽ thấy rằng cơn giận dữ bất
khả đắc. Sự đến đi của nó, những dấu vết nó để
rơi rớt lại cũng như dáng vẻ lộ liễu của nó, tất cả
đều là không tịch (423). Người ấy quán cơn giận dữ như
mười cõi [trong pháp giới] (424), và quán cơn giận dữ như
bốn thánh đức (425) như đã giải thích ở phần trên. Như
thế đó người ấy sẽ đạt được Phật đạo bằng cái
không-đạo của cơn giận dữ.
[18b20]
Cùng phương pháp nầy, hành giả nên quán những sự mê muội
khác- bất lương, lười biếng, lo rầu, thành kiến- cũng như
tất cả những tà pháp khác trong sinh hoạt hàng ngày.
Quán
thẳng vào các pháp vô ký
{18b22]
Thứ tư là pháp quán về [hành động và ý tưởng] chẳng
thiện chẳng ác- có nghĩa rằng, những pháp đó bản tánh
vô ký hoặc không pha trộn (426). Lý do cần phải quán những
pháp như vậy là vì có những người căn tánh vốn chẳng
tốt chẳng xấu. Nếu chỉ mang các pháp thiện hoặc bất thiện
ra mà quán, thì những người như trên không có cách nào đạt
đến giải thoát thế tục qua [sự thực hành] tự do như ý
muốn (tui-tzu-i). Thì những người nầy phải làm sao?.
[18b25]
Ðại Tập nói: {Sự viên mãn của trí tuệ cũng có mặt trong
tánh vô ký}(427). Vì vậy, chúng ta biết rằng có thể quán
được pháp vô ký.
[18b26]
Khi quán chiếu những tư tưởng vô ký nầy, hành giả nên
khảo sát xem chúng khác hoặc chẳng khác tư tưởng thiện
hoặc ác (428). Nếu chẳng khác thì hẳn nhiên chúng chẳng
phải là vô ký. Nếu khác, thì cái vô ký nầy sinh ra với
cái diệt của hình tướng hóa hợp có trước? Nó sinh với
tướng bất-diệt, hoặc cả hai, hoặc chẳng phải? (429). Trong
việc tìm kiếm cái hóa hợp [của tư tưởng thiện và ác],
hành giả thấy được rằng nó bất khả đắc; nắm giữ
cái vô ký lại càng được là bao!. Cái không hóa hợp giống
hoặc khác với cái hóa hợp? Vì chúng không như nhau, cái vô
ký không pha trộn [vào dung dịch thiện và ác]; và vì không
khác, chúng cũng không chia lìa. Vì không tụ hội, vô ký không
sinh; và vì không chia lìa nên không diệt (430).
[18c2]
Cũng hãy nhìn, từ mục nào trong mười hai mục ý niệm vô
ký phát sinh, vì ai mà nó phát sinh, và ai là người đang mang
[ý niệm vô ký]. Khi các ông quán chiếu như vậy sẽ thấy
rằng ý niệm vô ký rỗng lặng như hư không. Một pháp vô
ký đơn thuần cũng sinh ra mười pháp giới và vạn pháp trong
pháp giới đó. Hơn nữa, pháp vô ký cũng đồng với pháp
tánh (431). Rằng pháp tánh thường tịch là ý nghĩa của {Chỉ},
rằng tuy là tịch nhưng thường chiếu là ý nghĩa của {Quán}.
[18c6]
Hành giả đạt đến Phật đạo qua lối quán vô-đạo những
ý niệm vô ký. Ý niệm vô ký chính nó là pháp giới. Ðường
hoành gồm thu vạn pháp, đường tung chứa dung lục tức, từng
niệm vô ký tương ưng đầy đủ với chiếu cao và chiều
rộng [của pháp Phật]. [Phần quán chiếu còn lại] có thể
suy ra tương tự với phần nói về lối quán tà pháp đã nói
trên.
[18c8]
Nếu tùy tự ý tam muội được giải thích như cái thiện
sau cùng, đây là tiệm [Chỉ Quán] (432). Nếu Tùy Tự Ý tam
muội được giải thích như cả thiện và ác, thì đây là
đốn [Chỉ Quán] (433). Và nếu Tùy Tự Ý tam muội được
giải thích như thiện liên quan đến việc áp dụng (434) [nhiều
thứ lớp và hình thức quán] nếu cần, thì đây là bất định
[Chỉ Quán].
Lời
sau cùng
[18c10]
Với bốn tam muội, phương pháp (fang-fa) thì khác nhưng lý
quán (li-kuan) thì giống nhau (435). Một cách căn bản, những
phương pháp trong ba lối thực hành được dùng như pháp môn
trợ đạo (chu-tao fa-men). [Khi làm như vậy], chúng cũng làm
chướng ngại đạo (436). Vì Tùy Tự Ý (tui-tzu-i) tam muội
ít dùng phương pháp nên những cái phát sinh cũng nhẹ nhàng
hơn.
[18c13]
Nếu có người cho rằng chỉ riêng [thực hành] là vai trò
chính mà những phương pháp đưa ra giả dụ đóng, thì sự
tướng (shih-hsiang) sẽ được chứng minh là không hữu hiệu
[trong sự khuyến đạo] (437). Nhưng nếu có người hiểu lý
quán, không [kể đến] sự tướng thì cũng không thể hội
nhập [vào sự chứng ngộ]. Trở lại, nếu có người không
nắm bắt được ý tưởng nền tảng bên cạnh lý quán, thì
dù rằng sự tướng có trợ giúp, cũng không thành đạt. Tuy
nhiên, một khi người ấy hiểu lý quán, những tam muội liên
quan đến những phương thức thuộc hiện tượng sẽ chứng
đắc được dễ dàng. Những người tu đạo trên căn bản
sự tướng [như ba tam muội trước] sẽ có hiệu lực trong
khi ở bên trong đạo tràng, nhưng sẽ không giữ được khi
ra ngoài. Tuy nhiên, trong trường hợp của Tùy Tự Ý (tui-tzu-i)
tam muội thì không có khoảng giữa [hai điều] nầy. Những
phương pháp rõ ràng chỉ được dùng cho ba tam muội đầu
tiên (438), nhưng lý quán thì dùng cho cả bốn [loại].
[18c18]
Vấn: {Mỗi tam muội trong ba tam muội đầu tiên đều có phần
khuyến khích thực hành. Tại sao cái thứ tư lại không có?.
[18c19]
Ðáp: {Cái vô-đạo từ sáu chướng ngại hẳn là đạo giải
thoát, nhưng với những người có căn tánh trì trệ, trói
buộc nặng nề, khi nghe pháp nầy, có thể hiểu lầm và chìm
[trong biển phiền não] (439). Nếu chúng ta thêm vào phần khuyến
khích thực hành, sự lầm lẩn càng trầm trọng.
[18c20]
Vùng đất phương Bắc sông Hà và sông Hoài (440) có những
người tu pháp Không thuộc Ðại thừa nhưng đã bỏ mất những
ngăn cấm và đuổi theo con rắn [ái dục] (441). Tôi sắp sửa
nói với các ông về những người ấy. Các vị thầy trước
kia của họ đã dùng các thiện pháp như pháp quán căn bản,
nhưng, trải qua thời gian khá lâu không chứng ngộ được
đạo, họ buông thả tâm [giữ giới], và quay sang lấy tà
pháp làm đối tượng quán chiếu. Do đó, họ thành công trong
việc định tâm (ting-hsin) và hiểu được chút ít về tánh
Không (442). Nhưng họ không biết được căn duyên của thính
chúng, cũng không thâm nhập được bản hoài của [pháp] Phật.
Họ dùng một pháp nầy để dạy một cách bừa bải cho tất
cả mọi người.
[18c24]
Sau một thời gian thuyết pháp nầy cho người, một vài [môn
đệ] thu thập được chút lợi ích. Nhưng chẳng khác loài
sâu vô tình đục thành chữ trên phiến cây khô (443). Lấy
việc nầy làm chứng cớ, họ cho rằng học thuyết của họ
đã được chứng minh. Họ gọi những giáo pháp khác là hư
dối và chế nhạo những ai giữ giới và tu thiện [pháp] bằng
cách nói rằng: {Ðó không phải là đạo!} Họ không thuyết
giảng gì khác cho người ngoài giáo pháp nguy hại nầy, gây
ra nhiều tà vạy khắp nơi. Chính họ là những kẻ mù và
không có mắt, không thể biết gì là đúng, là sai. Tinh thần
họ càng trở nên ngu muội và phiền não càng nặng nề hơn
(444).
[18c29]
Vì những lời thính chúng nghe thích hợp với dục vọng và
đam mê của riêng họ, [người người] thành tín vâng theo.
Họ hoàn toàn vất đi những giới cấm, và không có cái gì
sai mà họ không phạm. Vì vậy mà tội lỗi của họ chất
cao như núi. Rồi thì người [được dạy] bất cần [giới
luật] nhiều như lá khô. Và để đáp ứng, vua và triều thần
đi đến chỗ hủy diệt pháp Phật. Phong trào đồi trụy nầy
lan rộng cho đến nay vẫn chưa sửa sai được (445).
[19a
2] ‘Shih chi’ nói: {Vào cuối đời nhà Chu có một số người
để tóc rối tung và cổi bỏ quần áo, không theo nghi luật.
Kết quả là người thiểu số phương Tây xâm lấn đất đai
(446)}. Một số ít người giữ nề nếp chưa bị hư hoại
treo [mong manh] như sợi chỉ, và nhà Chu dần dần sụp đổ.
[19a
4] Lấy một thí dụ khác, Juan Chi là một người đặc biệt,
{để tóc rối tung và áo quần xốc xếch (447)}. Về sau con
cháu các nhà quý tộc bắt chước ông. Họ chủ trương rằng
chung cùng với người giúp việc và chó thì đạt đến tự
nhiên, và gọi những người tuân giữ giới luật là ‘người
quê mùa’. Ðây là những mầm mống đưa đến sự sụp đổ
họ Tư Mã [triều Tây Tấn].(448)
[19a
7] Sự hủy diệt Phật giáo thời Bắc Chu bởi Vũ Văn Ung (Yu-wen
Yung) (449) cũng vì những hạt giống tà mỵ [tu sĩ hư hỏng]
của Nguyên Tung (Yuan-sung) (450). Hai người nầy là những yêu
ma của thời đại. Chỗ nầy chẳng liên can gì đến ý nghĩa
chân thực của tùy-tự-ý tam muội. Tại sao không? Vì những
chuyện xảy ra như trên phần lớn do những kẻ u mê, hoàn
toàn thiếu trí tuệ để hiểu biết, lại đặt trọn lòng
tin mù lòa vào thầy của họ, thán phục và bắt chước theo
khuôn mẫu của thầy mình, và xác quyết rằng: ‘Ðây là
đạo.’ Ngoài ra, họ bước vào con đường bê tha theo cảm
xúc, họ vui thú chấp chặt mà không hề nghĩ đến việc sửa
lại những sai lầm (451).
[19a
11] Lấy một thí dụ về người đàn bà nổi tiếng có nhan
sắc tên là Hsi-shih. Mỗi khi nàng nầy bị bệnh đau đầu
thì nhăn mặt và rên rỉ, chân mày nhíu lại, càng khiến nàng
ấy đẹp hơn. Những người đàn bà láng giềng vốn thiếu
nhan sắc, bắt chước nàng kia nhăn mặt, nhíu mày, nhưng thay
vì trông đẹp hơn thì lại xấu đến đổi khiến người
nghèo chạy xa, người giàu đóng cổng, cá phải lặn sâu,
và chim phải bay cao (452).
[19a
14] Những người nói trên giống như những người đàn bà
thiếu nhan sắc nầy. Giống như loài chó điên đuổi theo tiếng
sấm nổ (453), tự tạo nghiệp địa ngục. Họ thật khốn
khổ biết bao; thật đau lòng khi thấy họ!. Một khi họ đã
nếm mùi dục lạc, họ không thể dừng lại. Họ giống như
loài ruồi xanh, dính chặt vào [thức ăn của riêng chúng] vì
chút nước bọt của chúng. Chỗ nầy vốn là lỗi lầm của
sự phóng túng.
[19a
17] Sự sai lầm chính của những người thầy của họ vì
không hiểu rõ căn tánh của môn đồ và bản hoài của [pháp]
Phật. Lý do Phật dạy rằng tham dục là đạo bởi vì Phật
biết khế cơ, Ngài biết rõ có những chúng sinh hạ liệt
không thể tu đạo bằng phương tiện thiện lành. Nếu những
người như vậy bị bỏ lại với tội lỗi của họ thì vòng
luân hồi của họ không có chỗ tận cùng; vì thế nên Phật
dạy họ tu tập Chỉ và Quán ngay nơi tham dục. Ðó cũng bởi
những người ấy không thể kềm chế được tham đắm mà
Phật phải tùy nghi nói pháp nầy.
[19a
21] Tương tự như khi cha mẹ thấy con mình vướng bệnh, và
biết rằng không một loại thuốc nào có thể trị được
bệnh ngoài nước thuốc rồng vàng (454). Mặc dù nếu đứa
bé uống thuốc sẽ cảm thấy ê răng và nôn mữa, nhưng sẽ
khỏi bệnh. Ðức Phật cũng như vậy, Ngài khế hợp giáo
pháp của Ngài với căn cơ người nghe.
[19a
23] Một con ngựa giỏi vẫn cần nhìn thấy bóng của chiếc
roi để theo đúng đường (455). Tham dục và đạo thì đồng
như nhau, thực vậy, là nghĩa chân thực của pháp Phật. Nhưng
để lợi ích cho những người không thích hợp trong việc
tu tập Chỉ và Quán ngay giữa tà pháp, Phật cũng dạy hành
thiện pháp và gọi là đạo. Vì vậy, Phật có hai giáo thuyết
[áp dụng tùy căn cơ]. Vậy thì tại sao các ông lại xa thiện
pháp và gắn liền vào tà pháp? . Nếu tất cả thực sự là
lối nầy, thì chính các ông lại cao hơn Phật!. Với tất
cả lòng thành thật trước mặt Phật, các ông có dám công
khai tuyên bố như vậy không? Ðúng là đôi khi cũng có khủng
hoảng sinh ra. Ðược gọi vào phục vụ nhà nước, các ông
cũng có thể không tu tập thiện pháp được. Dưới những
cảnh huống như vậy, Phật cho phép tu tập Chỉ và Quán ngay
ở giữa tà pháp. Nhưng vào lúc này không có khủng hoảng
và quân dịch. Vậy thì tại sao các ông lại để vào trong
giáo pháp của các ông không gì hơn là thuốc sữa, đầu độc
đời sống trí tuệ của người khác?. (456)
[19b1]
Vì lý do nầy, kinh A Hàm nói rằng nếu một người chăn cừu
quen thuộc đường đi thì có thể lùa đàn cừu về [chuồng]
an ổn (457). Nếu có vấn đề với đường đi tốt, và không
thể đi được, thì người nầy không có chọn lựa nào khác
hơn là đi con đường khó đi. Nhưng con đường khó đi thì
hứa hẹn nhiều nguy hiểm, với cả trăm con vật, người nầy
có thể không đưa được con nào về đến nơi.
[19b3]
Các ông hiện nay không vướng bận việc nhà nước, và may
mắn có thể đưa đàn cừu đi xuyên qua con đường dễ đi.
Vậy thì tại sao các ông lại đưa chính các ông và người
khác vào con đường xấu?. Các ông làm hư hoại pháp Phật,
làm ngăn ngại ánh sáng tuyệt diệu của Ngài, và đưa chúng
sinh vào chỗ lầm lẩn. Ðây là việc làm của ác tri thức
(458)- là những người không hiểu được bản hoài của Phật.
[19b5]
Lại nữa, trình độ và những lối về vội vã cả hai có
thể đưa đến mục tiêu. Có thể đi trên con đường giốc
nếu có trở ngại trên con đường khác. Cũng vậy, [quán]
thiện pháp cũng như [quán] tà pháp đều giúp hành giả đạt
mục tiêu. Sau khi căn cơ [của hành giả] đã được vị thầy
phân tích, người ấy có thể vào được pháp [quán] chướng
ngại.
[19b7]
Nhưng nếu, do chối bỏ thiện pháp và chỉ muốn giữ tà pháp,
các ông thật sự có thể đến được mục đích bằng con
đường vô-đạo, vậy thì tại sao các ông không đi trên nước
hoặc trên lửa, hoặc leo lên giốc núi?. Vì, thực sự, các
ông không thể đi theo những con đường giốc ngay cả trong
cõi thế gian, thì làm sao các ông có thể hiểu được chánh
đạo khi tiếp tục đi trên tà đạo!. Ðìều nầy có bao giờ
xong?.
[19b9]
Hơn nữa, các ông khó thể biết được căn duyên của chúng
sinh. Ngay cả chỉ một người mà có khi thích thiện, có khi
thích ác- sự chọn lựa không nhất thiết cố định. Vô số
người còn bất định hơn nữa. Không kể những điều nầy,
chỉ qua ái dục mà các ông cố công dạy bảo họ. Kinh Duy
Ma Cật nói: {Ta nghĩ rằng các vị Thanh Văn không rõ được
căn tánh thính chúng, và vì vậy không nên thuyết pháp cho
họ (459)}. Các bậc hành giả Nhị Thừa không rõ gia thế [thính
chúng], và [có khi] nhầm lẩn cơ cảm của họ. Những người
thầy thất bại, mù lòa, ngu xuẩn, không có mắt như các ông
thì còn [tệ hại] hơn biết bao! Chính các ông đã xúc phạm
đến kinh điển, và không biết phối hợp căn cơ người nghe
với chân lý. Làm cách nào cái ngu xuẩn và mê muội của các
ông lại bất thần xảy ra như vậy?.
[19b15]
Nếu có người không biết được cơ cảm của thính chúng,
hành và thuyết đạo nầy, thì người ấy như cái xác giữa
biển giới luật và nên bị trục xuất như Luật tạng đã
định (460). Ðừng để mặc cho giống cây độc trổ hoa lá
trong vườn nhà (461).
[19b17]
Hơn nữa, khi quán sát tà hạnh, chúng ta thấy rằng có những
loại bất thiện đặc biệt. Các ông nói rằng ái dục tức
đạo, và vì thế nên các ông sẳn sàng đi ve vãn bất cứ
phụ nữ nào. Nhưng các ông không thể tự đưa thân ra và
nói rằng sân hận tức đạo, nên ai đó có thể gây thương
tích cho bất cứ người đàn ông nào (462). Các ông chỉ ưa
thích vẻ đẹp và [làn da] mịn màng [của người nữ], nên
xác định rằng đó là đạo, trong khi đó thì lại sợ cảm
giác đau đớn khi bị đánh đập, nên không nhận rằng đó
là một phần của đạo. Các ông lấy cái nầy nhưng không
lấy cái kia. Các ông nói rằng đạo trong cái nầy và không
trong cái kia. Ngu si và u ám như dưới lớp sơn mài đen (463),
thiên kiến của các ông chỉ đưa đến ô trược và hư hại,
giống như cái xác hư rữa làm ô nhiễm khu vườn đẹp đẽ.
[19b22]
Sự bài bác của chúng ta đối với lối hành xử kỳ quặc
và thiên lệch nầy đã nói ở phần trên. Ðôi khi nếu có
người đe dọa những người trên bằng nước, lửa, đao,
gậy, thì họ sẽ im tiếng. Rồi thì họ có thể trả lời:
‘Các người không hiểu được đâu, tôi luôn luôn vào trong
những dục lạc nầy mà chẳng trở nên ô nhiễm.’ Ðây là
những lời gian dối và vô liêm sĩ, càng cho thấy rằng những
kẻ đó chẳng hề biết gì về Lục Tức.
[19b25]
Có lý do tại sao những cảnh giác như trên cần thiết. Ba
phương pháp thực hành đầu tiên thì rất nghiêm khắc và
đòi hỏi công sức; vì vậy mà phải ‘khuyến tu’. Với
pháp môn tùy-tự-ý tam muội nầy, hành giả ‘tự làm giảm
ánh sáng’ (464) và đi vào tà pháp. Giai đoạn sơ khởi thì
rất dễ thực hành. Vì vậy những lời cảnh giác rất cần
thiết. Cũng vậy, khi uống một số lượng lớn thuốc rồng
vàng, người nầy phải uống thật nhiều nước ấm để làm
dịu [phản ứng của chất độc] (465).
[19b27]
Vấn: {Nếu có người dùng chánh quán trung đạo để hợp
nhất tâm mình, đủ để đưa vào thực hành. Có cần gì phải
thêm những cái phiền phức như tứ tam muội, và dùng [cách
quán] thiện, ác, và mười hai đề mục?. Khi nước vấy bùn
thì hạt ngọc trai bị che khuất. Khi gió thổi mạnh thì sóng
chao mặt nước (466). Làm cách nào [những loại thực tập
như trên] có thể khiến cho nước trong lặng?}.
[19c1}
Ðáp: {Thái độ của ông giống như thái độ của một người
hành khất: khi chỉ được chút ít mà đã nghĩ rằng đã có
đủ và không muốn gì hơn nữa. Nếu có người chỉ dùng
một khuôn mẫu để thực tập quán tâm, khi người ấy đương
đầu với nhiều trạng thái tinh thần khác nhau thì cái gì
sẽ xảy ra?. Dưới những tình huống như vậy, cách tu tập
của riêng ông ắt phải khổ. Nếu ông chỉ dạy cho người
[phương pháp nầy], căn tánh của mỗi người chẳng giống
nhau. Vì phiền não của một người mà đã không tính kể
được (467). Càng nhiều người thì còn đến bao nhiêu nữa!.
[19c5]
Chúng ta hãy nghĩ đến một ông thầy thuốc gom hết tất cả
loại thuốc để trị hàng loạt bệnh. Có một người mắc
phải một chứng bệnh lạ, cần một loại thuốc đặc biệt
để trị bệnh. [Thấy vậy] người ấy nghĩ rằng thật quái
lạ, một lương y sao lại mang theo quá nhiều thuốc khác nhau.
Câu hỏi của ông cũng vậy (468).
[19c6]
Những tâm bệnh từ ô nhiễm của một người thì vô lượng
và vô biên, kể chi đến nhiều người. Thì tại sao có người
chỉ dựa trên căn bản tổng quát của một cái độc nhất?.
Nếu có người muốn nghe các ông thuyết về tứ tam muội,
và được an vui khi nghe pháp nầy, thì các ông phải thuyết
giảng rõ ràng như đòi hỏi- đây là thế-tục-[tất-đàn].
Nếu vì được nghe tứ tam muội, người ấy dần dần tu tập
và có thể phát huy thiện hạnh, thì lại thuyết giảng thêm
chi tiết đầy đủ về tứ [tam muội]- đây là vị-nhân-[tất-đàn].
Lại nữa, nếu pháp môn thường-thiền-tọa hoặc tùy-tự-ý
tam muội (do sự hướng dẩn minh bạch) chứng minh rằng mang
lại lợi ích cho người nầy phá diệt tà hạnh, thì đây
gọi là đối-trị-[tất-đàn]. Một khi người nầy, qua bốn
phương pháp, đạt đến hoàn toàn giác ngộ, thì đây gọi
là cứu-cánh-[tất-đàn]. Dù rằng chỉ với một người, có
thể cần giảng cả bốn cách khác nhau. Vậy tại sao không
nên dùng [tất cả]?.
[19c14]
Nếu cả bốn tam muội được thuyết cùng lúc cho nhiều người,
một trong những người nầy có thể chỉ muốn nghe về thường-thiền-tọa
tam muội mà không thích ba tam muội kia. Theo lòng ưa thích của
đám đông là thế- tục-tất-đàn. Ba tất-đàn kia có thể
được hiểu một cách thích ứng.
[19c16]
Hơn nữa, bất cứ tam muội nào trong [bốn] hình tướng tam
muội đều chứa đựng ý nghĩa của tất cả tứ-tất-đàn.
Thí dụ, lấy hai tam muội đầu tiên, nếu hành giả muốn
đi thì đi, nhưng nếu người ấy muốn ngồi thì ngồi (469).
Nếu khi bước đi, mầm mống thiện của người ấy hiển
lộ, và người ấy thâm nhập vào được toàn thể pháp, thì
nên tiếp tục bước đi như vậy. Nếu khi người ấy ngồi,
tinh thần trở nên minh mẩn, an vui, dừng nghỉ, thì nên tiếp
tục ngồi xuống như vậy (470). Nếu tâm người ấy trở nên
trì trệ và mờ tối trong khi ngồi thì nên phủi bỏ, đứng
dậy bước đi; khi bước đi lại sinh tâm tán loạn, mệt mỏi
thì nên ngồi xuống (471). Nếu trong khi bước đi, cảm thấy
vui mừng và buông bỏ, thì nên tiếp tục bước đi; nếu trong
lúc ngồi [tâm] trở nên rõ ràng, sắc bén thì nên tiếp tục
ngồi (472). Áp dụng tứ-tất-đàn đối với ba tam muội kia
cũng như vậy} (473).
[19c22]
Vấn: {Thiện pháp đưa đến nguyên lý tối thượng, và vì
vậy có thể được dùng trong việc tu tập Chỉ và Quán. Nhưng
tà pháp thì trên đường đối nghịch với chân lý. Tại sao
hành giả [lại dùng tà pháp như căn bản] tu tập Chỉ và
Quán?}.
[19c23]
Ðáp: {Trong phần luận về căn tánh và nghiệp chướng, Ðại
Tập phân ra bốn loại người. Thứ nhất là hạng người
căn cơ sắc bén và không có nghiệp chướng (474). Thứ hai
là hạng người căn cơ sắc bén nhưng có nghiệp chướng.
Thứ ba là hạng người căn cơ trì trệ nhưng không có nghiệp
chướng. Thứ tư là hạng người căn cơ trì trệ và bị nghiệp
bủa vây (475)}.
[19c25]
Hạng người thứ nhất là hạng thượng căn. Trong số những
người sống vào thời Phật tại thế thì Ngài Xá Lợi Phất
là một tấm gương sáng (476). Nếu những người như trên
thực hành Chỉ và Quán trong thiện pháp, năng lực hướng
về thiện pháp sẽ giúp họ ngăn trừ nghiệp chướng trong
tương lai, và sự tu tập thường xuyên sẽ khiến căn cơ [càng]
sắc bén. Nếu có người đã từng tu tập thuần thục cả
hai pháp nầy (477) trong quá khứ, thì dù chỉ gắng công tu
tập nhẹ nhàng trong kiếp hiện tại cũng sẽ mang đến sự
đáp ứng tương đương. Từ quán-hành-tức, người ấy sẽ
bước vào tương-tự-tức, và cuối cùng là chân lý tối thượng.
Nếu có những hành giả chưa chứng đạt được trong hiện
tại là vì chưa từng tu tập hai pháp nầy trong quá khứ. Nếu
giờ đây, họ tu tập thiện pháp Chỉ và Quán, pháp môn nầy
sẽ giúp họ tiến nhanh vào [lục tức] trong thời gian sắp
đến.
[20a
1] Phần kế tiếp là những người có căn cơ sắc bén có
thể đạt đạo nhưng bị nghiệp chướng nặng nề tích lũy
từ những lỗi lầm trong quá khứ. Trong thời gian Phật tại
thế, hai người là vua A-xà-thế (Ayatasatru) (478) và Ương-quật-ma-la
(Angulimaliya) là những tượng trưng cho hạng người nầy. Mặc
dù tội lỗi và nghiệp chướng của họ nặng nề đến đổi
họ có thể đọa địa ngục, nhưng vì thấy được Phật
và nghe được pháp Phật, họ chứng ngộ và đạt thánh vị.
Nghiệp chướng của họ không thể ngăn chận [sự giác ngộ]
nhờ vào căn cơ sắc bén. Những hành giả ngày nay tu tập
Chỉ và Quán ngay ở giữa tà pháp là hạng người nầy. Vì
những tội lỗi họ gây ra, họ sẽ chịu nghiệp chướng trong
tương lai, nhưng vì tu tập Chỉ và Quán căn cơ họ trở nên
sắc bén trong những kiếp sắp đến. Nếu gặp được bạn
hiền, họ sẽ thâm nhập được chân lý [ngay lúc họ nhìn
thấy bóng] chiếc roi. Vậy thì tại sao các ông lại nói rằng
tà pháp ngăn trở chân lý và không thích hợp trong việc tu
tập Chỉ và Quán?.
[20a8]
Tiếp theo là hạng người căn cơ trì trệ nhưng không có nghiệp
chướng. Bàn Ðặc (Cudapanthaka) là một thí dụ của hạng
người nầy thời Phật tại thế. Mặc dù người nầy không
phạm lỗi về thân, khẩu, hoặc ý, nhưng căn tánh lại quá
trì trệ. Ông trải qua 90 ngày để học một bài kệ nho nhỏ:
‘Kẻ trí không phạm vào những việc xấu ác đối với thân,
khẩu, và ý; luôn cảnh giác, họ không mê đắm vào đối
tượng của dục vọng; họ cũng không làm những việc vô
ích thịnh hành trong thế tục’.}(479)
[20a
12] Với những người tuân giữ giới luật và thực hành thiện
hạnh nhưng lại không tu tập Chỉ và Quán, cũng sẽ không
gặp chướng ngại trong tương lai. Tuy nhiên, họ sẽ thấy
rằng thực khó mà giác ngộ được đạo.
[20a
13] Sau cùng là những người hành tà pháp và không màng tu
tập Chỉ và Quán. Cuối cùng thì họ thất bại trong việc
chứng đạo. Căn tánh họ quá trì trệ, dù rằng nhắc lại
một lời giảng cả ngàn lần họ vẫn mê muội và tối tăm.
Thêm vào đó, vì phạm vô số lỗi lầm, họ phải gánh chịu
đủ loại chướng ngại. Họ giống như người mắc bệnh
hủi, với thân thể tê điếng, dù hàng trăm mũi kim chích
đến tận xương cũng không còn nhận biết được. Quanh họ
không gì khác hơn là tà [hạnh].
[20a
17] Vì lý do nầy, mặc dù thiện pháp thuận đường chân lý,
đạo trước hết từ Chỉ và Quán, dù cho tà hạnh có thể
cản trở nguyên lý, thiện căn sẽ tẩy xóa những ngăn ngại.
Như vậy, chỉ riêng đạo vững vàng tuyệt đỉnh. Tà pháp
làm sao loại bỏ được Chỉ và Quán?.
[20a
19] Kinh Niết Bàn nói: {Người không nghiêm túc trong việc tuân
giữ quy luật thì không hẳn bị nhìn là người bê tha, nhưng
người không nghiêm túc đối với pháp thì gọi là người
bê tha (480)}. Bốn loại chia ra hai cặp ‘bê tha’ và ‘nghiêm
túc’ [đối với pháp và giới luật] nên được hiểu tương
tự như ‘năng lực’ và ‘chướng ngại’ như trên (481).
[20a
21] Như kinh nói: ‘Thà làm Ðề Bà Ðạt Ða (Devadatta) hơn
là làm Uất Ðầu Lam Phất (Udraka Ramaputra)’ (482). Hành giả
nên thường xuyên thực tập nghe pháp và tư duy về pháp được
nghe, khi đã khởi sự thì không bao giờ được xao lãng. [Sự
cực kỳ quan yếu của pháp] có thể được thấy trong trường
hợp của người Bà-la-môn say nhận lễ thí phát (438), hoặc
người kịch sĩ khoác áo nhà tu (484).