[20a24]
Trong phẩm ba chúng ta giải thích làm cách nào Chỉ và Quán
được thuyết nhằm mục đích chiếu soi sự thanh tịnh và
quả báo (kuo-pao) (1) [mục tiêu chân chính] của Bồ Tát. Nếu
sự thực hành xa lìa trung đạo (2), [Bồ Tát] sẽ chứng nghiệm
quả hoặc báo từ hai cực đoan [luân hồi và Niết Bàn]; nếu
sự thực hành thuận theo trung đạo, chư vị sẽ chứng đắc
được kết quả vi diệu. Dù họ không sinh ra trong lục đạo
[luân hồi] (3), hoa quả báo [mà họ có được trong đời nầy](4)
sẽ trổ ở cõi bảy phương tiện [trên đất Phật](5). Cõi
thực báo (6) lại càng vi diệu hơn. Cõi nước Nhất Thiết
Hương, với bảy tầng lớp và những chiếc cầu bắc ngang
như tranh vẽ, là hình ảnh của cõi Phật nầy (7). Phần nầy
sẽ được nói chi tiết trong đại phẩm VIII (8).
Vấn:
{‘Thứ Ðệ Thiền Môn’ cũng giải thích về ‘tu chứng’(hsiu-cheng)
(9), tương hợp như thế nào với những điều được nói
đến ở đây?}.
Ðáp:
{Trong ‘Thứ Ðệ Thiền Môn, ‘tu’ chỉ cho những giới luật
hằng ngày, và ‘Chứng’ có nghĩa là chứng nghiệm [kết
quả] dưới hình thức hiển lộ. Lại nữa, ‘tu’ ở điểm
nầy là ‘tập nhân’ (hsi-yin), và ‘chứng’ là ‘tập quả’
(hsi-kuo) (10). Cả hai đều có thể chứng được trong đời
nầy. Tuy nhiên, kết quả nói đến [trong phẩm nầy] ứng vào
kiếp vị lai. Về mặt ‘chứng’ có khác trong ‘Thứ Ðệ
Thiền Môn’. Nhị Thừa chỉ có ‘tập quả’ trong kiếp
hiện tại, mà không có quả báo trong kiếp vị lai; nhưng Ðại
Thừa thì có cả hai}.
Tham
Khảo
1 Hai
chữ ‘kuo-pao’ dịch là ‘quả’ hoặc ‘báo’ có thể
chỉ cho kết quả hổ tương hoặc nghiệp quả (tức báo) cũng
như sự kết trái từ đường lối thực hành (tức quả).
Trong phẩm nầy, hai chữ trên mang nghĩa thứ hai, tức quả
vị Bồ Ðề. Như Chan-jan (T46.214c20-21) nói: {Quả hoặc báo
có nghĩa rằng quả đến dưới hình thức báo. [Thí dụ],
nếu có người diệt vô minh, người ấy chứng đắc vô-sinh-pháp-nhẫn
(anutpatika-dharma-ksanti)}.
2
Chan-jan (T46.214c7-8) nói: {‘Xa lìa trung đạo’ chỉ có nghĩa
rằng [Bồ Tát] chưa diệt được hết vô minh và chưa chứng
đắc trung đạo đế. Trụ trong pháp thân từ sơ trụ đến
thập trụ tức ‘thuận’ [theo trung đạo]. Chỗ nầy có nghĩa
rằng Bồ Tát chưa vào được quả vị chính của thập trụ
hoặc phần-chứng-tức trên đường đi của Viên giáo}.
3
‘Phần đoạn sinh tử’ (fen-tuan-sheng-ssu) mô tả vòng tái
sinh trong sáu cõi (tức tam giới) của phàm phu. Các cõi nầy
trái với các cõi siêu luân hồi, hóa sinh vào cõi tịnh (tức
A na hàm hoặc A la hán) hoặc đi vào luân hồi như một Bồ
Tát đã giác ngộ muốn cứu độ chúng sinh.
4
Kinh Niết Bàn (T12.717a) phân biệt giữa quả báo trong kiếp
nầy (như hoa) và quả báo kiếp sắp đến (như quả). Ðại
Trí Ðộ Luận (T25.140c), mặt khác, gọi quả báo an lạc trong
kiếp nầy và kiếp sau là ‘bóng cây’, quả vị Thanh Văn
và Duyên Giác là ‘hoa’, và quả Phật là ‘quả’. Ở đây
bản văn theo kinh Niết Bàn.
5
Cõi nước Phật và cõi ‘Bảy Phương Tiện’ là cõi thấp
nhất thứ hai trong bốn cõi được Trí Khải phân biệt. (Ðọc
Maha Chỉ Quán, phẩm I, ghi chú 108). Bốn cõi gồm có: Phàm
Thánh Ðồng Cư Ðộ, Phương Tiện Hữu Dư Ðộ, Thực Báo
Vô Ngại Ðộ, và Thường Tịch Quang Ðộ. Tất cả bốn cõi
đều gọi là Phật độ vì Phật vào tất cả những cõi nầy
để thuyết pháp cho chúng sinh và hướng chúng sinh về chỗ
giác ngộ.
Ðối
với cõi ‘Bảy Phương Tiện’, hai chữ ‘phương tiện’
chỉ cho bảy loại chúng sinh đến được cõi nầy, không qua
phương pháp hoặc cách thức của thế gian. Theo Chan-jan (T46.215a
12-13) con số bảy chỉ cho Người, Trời, Thanh Văn, Duyên Giác
của Nhị Thừa, Bồ Tát Thông giáo, Biệt giáo, và Viên giáo
là những vị chưa hoàn toàn chứng ngộ trung đạo. Cõi Thực
Báo Vô Ngại Ðộ thứ ba- chỉ có Bồ Tát bắt đầu diệt
được vô minh và chứng được nghĩa trung đạo (tức Thập
Ðịa của Biệt giáo hoặc Thập Trụ Phần-Chứng-Tức của
chân Viên giáo). Cõi thứ tư là mật tạng của tất cả chư
Phật. Chan-jan (T46.214c3 và 214c17) nói rằng cõi Phật được
các hành giả Viên Ðốn Chỉ và Quán nầy chứng đắc là
cõi thứ ba, Thực Báo Vô Ngại Ðộ.
6
Theo kinh Niết Bàn, cõi nầy có nghĩa là quả báo kiếp vị
lai. Chan-jan (T46.214c21-23) và Kogi (2.82) đồng ý rằng quả báo
nầy ở quốc độ thứ ba.
7
Từ câu chuyện nổi tiếng của Bồ Tát Dharmodgata và học
trò là Sadapralapa (Thường Khóc) trong Pancavimsati. (Ðọc Ðại
Trí Ðộ Luận, T25.734a-b). Bồ Tát Dharmodgata ở trong thành
Nhất Thiết Hương (Sarvagandha). Ngài Sadapralapa khó nhọc tìm
đến nơi để được nghe pháp. Cõi nước trong kinh mô tả
có bảy lớp ‘đẹp như tranh vẽ’ và mặt đất bằng phẳng,
sạch sẽ.
8
Như chúng tôi đã nói trong phần giới thiệu, đại phẩm VIII
(Quả hoặc Báo), phẩm IX (Giáo hóa chúng sinh), và phẩm X (
Chỉ Quy) đã không được hoàn thành vì những bài giảng của
Trí Khải trong Maha Chỉ Quán dừng lại sau phẩm VII (Chánh
Quán). Tiểu phẩm 3 về quả hoặc báo nầy là đại ý của
đại phẩm VIII.
9
Phẩm 7 (tức năm phẩm sau cùng) của Thứ Ðệ Thiền Môn (T46.
508a-548c) luận về tu chứng đối với pháp thiền thuộc thứ
đệ tiệm tiến chỉ và quán. Như Maha Chỉ Quán, Thứ Ðệ
Thiền Môn cũng có thêm ba phẩm- (8) Quả Báo, (9) Giáo Hóa,
và (10) Chỉ Quy- cũng không bao giờ được hoàn thành. Trong
sự liên hệ với Thứ Ðệ Thiền Môn, có người muốn biết
tại sao đại sư thuyết về ‘tu chứng’ (phẩm 7) hơn là
về ‘quả báo’ (phẩm 8).
10
Sabhaga-hetu và Nisyanda-phala hoặc ‘tập nhân’ và ‘tập quả’
mô tả những trường hợp các niệm thiện, ác, và vô ký;
nối tiếp cái trước mà phát khởi cái sau. Pháp thiền quán
trong Thứ Ðệ Thiền Môn trình bày cùng phương thức đưa
ra quả báo đặc thù. Như vậy trong [tiền] tu có thể thấy
được [hậu] chứng, như ‘tập nhân’ và ‘tập quả’.