NGHIÊN CỨU VÀ PHIÊN DỊCH ĐẠI PHẨM THỨ NHẤT
MA HA CHỈ QUÁN
PHÁP MÔN VIÊN ĐỐN

(The Great Calming and Contemplation)
THIÊN THAI TRÍ KHẢI

Neal Donner & Daniel B. Stevenson biên soạn

Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
Nhà xuất bản Phương Đông TP. HCM 2009



PHẦN HAI
CHÚ DỊCH ĐẠI PHẨM THỨ NHẤT MA HA CHỈ QUÁN

Mục Lục | Bài Tựa | Tiểu Phẩm I | Tiểu Phẩm II | Tham Khảo
Tiểu Phẩm III | Tiểu Phẩm IV | Tiểu Phẩm V | Thiên Thai Trí Giả

___________________________________________________

Tiểu phẩm V
Quy Ðại Xứ

[20b13] Trong tiểu phẩm V, chúng ta giải thích Chỉ và Quán được thuyết như thế nào nhằm mục đích đưa hành giả về với tánh Không tối thượng của vạn pháp, tức ‘đại xứ’ (ta-ch’u). (1)
[20b14] Một bàn tay dính [nhựa thông] dễ bị dán chặt (2), và khó ra khỏi giấc mơ say. Có những người đóng sách, tự câu thúc [văn] nghĩa, và tuyên bố rằng cái hiểu của riêng họ là đúng. Họ tranh đoạt với người để cướp lấy gạch, sỏi mà tưởng rằng đó là lưu ly (3). Ngay cả những việc thường ngày, những câu [kệ] đơn sơ họ cũng không lãnh hội được (4), làm sao mà họ không lầm khi đến với lý đạo thâm sâu và mật giáo? Ðó là lý do tại sao cần phải luận về chỉ quy (chih-kuei).
[20b17] ‘Chỉ quy’ (5) đưa ra ý nghĩa [nơi chốn] hướng về, như muôn dòng nước đổ vào biển lớn, hoặc những ngọn lửa cháy bừng trên nền trời (6). Hành giả phải phân biệt những ẩn tàng và đến được chỗ thâm sâu mà không kinh sợ (7). Hãy như một người cận sự thông minh, luôn đoán biết được nghĩa bóng của những chữ vua dùng (8). Bất cứ những gì các ông nghe được từ pháp [Phật], phải biết rằng không ngoài [bản hoài] đưa [chúng sinh] đến trí tuệ tối thượng (9). Bất cứ những ai hiểu được điểm nầy tức hiểu được ‘chỉ quy đại xứ’ (chih-kuei ta-ch’u)`. ‘Chỉ’ có nghĩa hướng dẩn chính mình đến ba tánh đức [Bồ Ðề] (10), và ‘quy’ có nghĩa là hướng dẩn người khác [nhận ra] chính họ: đây là cái gọi là ‘chỉ quy’. Lại nữa, ‘quy’ có nghĩa là tự mình vào được ba tánh đức, và ‘chỉ’ có nghĩa là khiến người khác vào được. Ðó là mục tiêu của phẩm ‘Chỉ Quy’.

Ba đức tánh Bồ Ðề hoặc Chân Như

[20b23] Giờ đây chúng ta lại giải thích về ‘chỉ quy’ với cả hai nghĩa tổng (tsung) và biệt (pieh). Với một giải thích giản lược thì chư Phật xuất hiện trên đời này do một đại sự nhân duyên (11). [Vì bản hoài nầy, chư vị ứng hiện nhiều thân tướng, dùng [những thân nầy] để hướng dẩn chúng sinh chứng ngộ được pháp thân [vĩnh hằng và vô tướng]. Một khi những chúng sinh nầy đã hiểu được pháp thân, chư Phật và chúng sinh quy về pháp thân. Ngoài ra, chư Phật cũng thuyết giảng nhiều loại pháp khác nhau, đưa chúng sinh về nhất-thiết-chủng-trí (i-ch’ieh-chung-chih) (12). Khi đã có được điều tối thượng nầy, chư Phật và chúng sinh đồng về với bát nhã. Hơn nữa, chư Phật hiển thị nhiều phương tiện, Phật lực, và ứng hóa, giải thoát chúng sinh ra khỏi phiền não của họ. Chư Phật không chỉ giúp một người diệt những trói buộc, mà những trói buộc của tất cả chúng sinh diệt bởi năng lực tịch diệt của Như Lai. Một khi những ràng buộc đã đứt lìa, cả chư Phật và tất cả chúng sinh giải thoát. Kinh Niết Bàn nói: {đưa tất cả con trẻ an nghỉ nơi bí mật tạng (pi-mi-tsang) mà chính Ta đã trú ở đó tự lâu xưa} (13). Ðây là sự giản lược hoặc những nét chính về ‘chỉ quy’.
[20c3] Bây giờ là những [giải thích] chi tiết về ba đức tánh: Có ba thân Phật, thân thứ nhất là thân tứ đại, thân thứ hai là thân của [giáo] pháp, và thân thứ ba là thân chân thực. ‘Quy’ là lúc mà các hoạt dụng giáo hóa đã qua, có thể được giải thích như sau: thân tứ đại quy về giải thoát, thân giáo hóa quy về bát nhã, và thân chân thực quy về pháp thân.
[20c6] Chúng ta cũng sẽ nói về ba loại bát nhã: thứ nhất là đạo-chủng-trí (tao-chung-chih), thứ hai là nhất-thiết-trí (i-ch’ieh-chih), và thứ ba là nhất- thiết-chủng-trí (i-ch’ieh-chung-chih) (14). ‘Quy’ có nghĩa là sau khi việc hóa đạo dừng lại, và đạo-chủng-trí quy về giải thoát, nhất-thiết-trí quy về bát nhã, và nhất-thiết-chủng-trí quy về pháp thân.
[20c8] Cũng có ba loại giải thoát: thứ nhất là giải thoát từ chướng ngại của trí phàm phu, thứ hai là giải thoát từ chướng ngại vào giáo thuyết, và thứ ba là giải thoát từ chướng ngại của vô minh (15). Khi đã hoàn tất sự giáo truyền, và quy về đại xứ, hành giả về với giải thoát khi không còn những chướng ngại của trí phàm phu; về với bát nhã khi không còn những trói buộc vào giáo thuyết, và về với pháp thân khi không còn những trói buộc của vô minh. Như vậy, khi nói về những phẩm tánh đặc thù nầy, ‘chỉ quy’ vẫn là quy về mật tạng của ba đức tánh [Bồ Ðề hoặc chân như].

Sự không thể suy lường của ba đức tánh

[20c12] Bây giờ [nói về] thực chất của ba đức tánh chẳng là ba cũng chẳng là một nhưng bất khả tư nghị. Tại sao?
Nếu chúng ta nói rằng pháp thân chỉ là pháp thân và chỉ có vậy, thì cái gì chẳng phải là [chân] pháp thân. Vì thế, phải biết rằng pháp thân là thân, trong khi, cùng lúc cũng chẳng phải là thân, là thân mà cũng chẳng là thân. Nếu có người trụ trong Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội (Surangama-samadhi) (16), người ấy hiển lộ tất cả thân và tâm. Như vậy, chúng ta dùng chữ ‘thân’. Một khi cái dụng đã thành tựu [những thân nầy] giải thoát. Trí tuệ chiếu soi những hình tướng vô biên là vô tướng, đó là lý do chúng ta nói rằng ‘chẳng phải thân’. Một khi cái dụng đã làm xong, quy về pháp thân. ‘Quy’ có nghĩa rằng đến với sự chứng ngộ ba thân nầy tướng chẳng đồng chẳng khác, và ‘chỉ’ có nghĩa là thuyết giảng cho người rằng ba thân chẳng đồng chẳng khác. Trong cả hai trường hợp, người ấy vào được mật tạng, và đó là lý do tại sao chúng ta nói rằng ‘chỉ quy’.
[20c21] Nếu chúng ta nói rằng bát nhã chỉ là bát nhã, và chỉ có vậy, thì cái đó chẳng phải là [chân] bát nhã. Vì thế, phải biết rằng chân bát nhã, đồng thời, biết, không-biết, và chẳng phải những thứ nầy. Bát nhã ở thứ bậc đạo-chủng-trí là cái trí phổ quát trên thế giới sự tướng (17), đó là lý do tại sao chúng ta dùng chữ ‘biết’. Một khi hoạt dụng đã làm xong, liền quy về giải thoát. Bát nhã ở thứ bậc nhất-thiết-trí có cái biết thâm sâu chân thực (chen), đó là lý do tại sao chúng ta dùng chữ ‘không-biết’. Một khi hoạt dụng đã làm xong, liền quy về bát nhã. Bát nhã ở thứ bậc nhất-thiết-chủng-trí có cái phổ trí của trung đạo, đó là lý do tại sao chúng ta dùng chữ ‘chẳng biết chẳng không biết’. Một khi hoạt dụng đã vẹn toàn, liền quy về pháp thân. ‘Quy’ có nghĩa là chứng ngộ ba [tướng] bát nhã chẳng tướng đồng chẳng tướng dị, và ‘chỉ’ có nghĩa thuyết giảng cho người rằng ba tướng bát nhã nầy chẳng đồng chẳng khác. Cả hai đều vào được mật tạng, và đó là lý do tại sao chúng ta dùng chữ ‘chỉ quy’.
[20c29] Nếu chúng ta nói rằng giải thoát chỉ là giải thoát, và chỉ có vậy, thì đó không phải là [chân] giải thoát. Vì thế phải biết rằng [chân] giải thoát, đồng thời, là giải-thoát, chẳng-giải-thoát, cũng như chẳng phải những thứ nầy. Giải thoát ở thứ bậc phương tiện thanh tịnh (18) điều phục chúng sinh hữu tình nhưng không bị chúng sinh làm ô nhiễm, đó là lý do tại sao chúng ta dùng chữ ‘giải-thoát’. Một khi việc phải làm đã làm xong liền quy về giải thoát. Giải thoát ở thứ bậc viên tịnh thì không nhận tướng chúng sinh hoặc tướng giải thoát, đó là lý do chúng ta dùng chữ ‘không-giải-thoát’. một khi việc phải làm đã làm toàn vẹn liền quy về bát nhã. Giải thoát ở thứ bậc bản nhiên thanh tịnh thì chẳng giải thoát chẳng không giải thoát. Một khi việc phải làm đã làm đến chỗ viên thành liền quy về pháp thân. Hoặc tự chứng ngộ, hoặc thuyết giảng cho người, tam-giải-thoát nầy không có tướng đồng tướng dị. Cả hai đồng thời vào được mật tạng, và đó là lý do tại sao chúng ta dùng chữ ‘chỉ quy’.

Ba đức tánh và ba sự ngăn ngại

[21a7] Bây giờ nói về ba đức tánh chẳng ‘mới’ chẳng ‘cũ’, nhưng đồng thời cả mới lẩn cũ (19). Tại sao vậy? Khi ba chướng ngại (20) che mờ ba đức tánh, vô minh che mờ pháp thân, tự trói buộc vào pháp môn thì che mờ bát nhã, và vô trí ngăn ngại giải thoát. [Dưới những tình huống nầy], chúng ta gọi tam chướng là ‘cũ’ bởi vì chúng đã có mặt, và chúng ta gọi tam đức là ‘mới’ bởi vì chúng chỉ xuất hiện khi tam chướng không còn. Nhưng [từ lối nhìn rốt ráo] thì tam chướng tức tam đức, và tam đức tức tam chướng. Vì tam chướng chính chúng không khác tam đức, tam chướng tuyệt nhiên không phải là ‘cũ’. Và cũng như vậy, tam đức tuyệt nhiên không phải là ‘mới’. Vì là mới mà cũng không là mới, hành giả tương ưng với tam đức trên từng bước đường [của đạo], và liền phát đại tâm chứng đắc Bồ Ðề. Và vì là cũ mà đồng thời cũng không là cũ, tam chướng đối trị và hàng phục mỗi bước đường từ sơ phát đại tâm cho đến chứng đắc Phật quả. Vì là cả hai mới và không-mới, cũ và không-cũ, tam đức hiện hữu như lý tánh (li-hsing) vốn có. Nếu có người có được cái hiểu tổng quát rằng tam đức chẳng mới chẳng cũ mà cũng mới cũng cũ, rằng chúng chẳng cùng chẳng khác [với tam chướng], và nếu có người chỉ dẩn cho người khác thuận theo [lý trên]- thì giáo pháp thực sự chỉ quy bí mật tạng (chih-kuei pi-mi-t’sang chung).
[21a 17] Bây giờ chúng ta sẽ giải thích [về tam chướng một cách riêng rẽ]: Vô minh thì gọi là cũ vì đã có trước, trong khi pháp thân hoặc giác ngộ hoặc trí tuệ chiếu soi (vidya) thì gọi là mới vì diệt được vô minh. Nhưng [ở chỗ rốt ráo thì] vô minh tức giác ngộ, và giác ngộ tức vô minh. Vì vô minh chính nó đồng với giác ngộ, vô minh không phải là cũ (có trước), và cũng như vậy, giác ngộ cũng không phải là mới. Tự trói buộc vào pháp môn thì gọi là cũ vì nó có trước, trong khi [thấy được] vô tướng thì đó là mới vì nó bôi xóa sự trói buộc vào hình tướng. Nhưng [ở chỗ rốt ráo thì] tướng tức vô tướng, và vô tướng tức tướng. Cái nào là cái mới và cái nào là cái cũ? Sự ngu tối chỉ cho cũ vì có trước, trong khi hiểu biết chỉ cho mới vì xóa bỏ sự ngu tối. Nhưng [ở chỗ rốt ráo thì] sự ngu tối chính nó đồng vớI hiểu biết, và kiến thức đồng với sự ngu tối. Cái nào là mới và cái nào là cũ ?.
[21a24] Nếu có người chứng đắc được rằng mới và cũ chẳng đồng chẳng khác, hoặc tổng quát hoặc đặc thù, và nếu có người dạy người dạy người khác thuận theo, thì đây gọi là ‘chỉ quy bí mật tạng’. Một cặp đối nghịch như tung và hoành, mở và đóng, thủy và chung (21), tất cả đều được hiểu tương tự.

Ý nghĩa của Chỉ và Quy

[21a 26] [Ý nghĩa của cặp] ‘Chỉ Quy’ cũng có thể được hiểu như sau: chỉ, không-chỉ, chẳng chỉ chẳng không chỉ; quy, không-quy, chẳng quy chẳng không quy- mỗi mỗi [có thể được hiểu] vào mật tạng. Chỗ nầy có thể hiểu tương tự với cách lập luận trước, vì ‘chỉ’ là tự giác, ‘không-chỉ’ là dạy người (22), và ‘chẳng chỉ chẳng không chỉ’ là sự vắng bặt của cả ngã và tha.
[21a 27] Tánh tịch tịnh của tam đức diễn bày ‘chỉ quy’. Từ ngữ nào có thể mô tả được nó? Người ta làm cách nào để dán cho nó một nhãn hiệu? Nếu bắt buộc phải có tên thì chúng ta gọi đó là trung đạo, chân như, pháp thân, chẳng tịch chẳng chiếu (23). Hoặc là chúng ta dùng những danh từ như ‘nhất thiết chủng trí’, ‘đại trí tuệ viên mãn’ (24), ‘bát nhã ba la mật’, ‘trí hoặc quán’; hoặc là chúng ta gán cho nó những nhãn hiệu như ‘Thủ Lăng Nghiêm tam muội’, ‘Ðại Bát Niết Bàn’, ‘giải thoát bất khả tư nghị’ (25), hoặc ‘chỉ’.
[21b5] Vì thế, phải biết rằng mỗi mỗi khía cạnh trong toàn bộ [giáo lý] về phẩm tánh, ngữ ngôn, và thần thông [thị hiện] đều vào mật tạng.
[21b6] Chỉ quy nầy: Là gì? Ở đâu? Là ai? (26) . Ðường ngôn ngữ bị cắt đứt (27), Cái tâm hành kia đã bị diệt (28). Tịch diệt, như hư không. Ðây là cái chúng ta gọi là ‘chỉ quy’. Những điều nầy sẽ được nói chi tiết trong đại phẩm X (29).

HẾT

Tham Khảo

1 Kogi (2.89) nói rằng hành và chứng rốt ráo đưa hành giả về nơi không còn đường phân chia giữa nhân (thực hành) và quả (chứng ngộ), giữa ngã và tha.
2 Từ kinh Niết Bàn, T12.761a 17-b5. Ðọc kinh A Hàm (Samyuktagama, T2.173b-c). Trong bản Pali (Samyutta-nikaya, 47.1.7) là đoạn ‘kinh Khỉ’ (Makkata-sutta), do Rhys-Davids và Woodward dịch trong tác phẩm ‘The Book of the Kindred Saying’, 5.127-128. Những ai còn quẩn quanh trong vòng trói buộc và trong những lối thấy nghiêng ngữa sánh với chú khỉ không thể ngừng sờ tay vào chất keo mà người thợ săn đã gài bẫy. Một tay của chú đã bị dính keo, và khi chú cố sức thoát ra thì cả tay kia, hai chân, và miệng đều bị keo dán chặt. Rồi thì người thợ săn trở lại, dùng cây sào kéo chú khỉ khốn khổ kia lên, sẳn sàng một món ăn cho buổi chiều. Chú khỉ tượng trưng cho phàm phu (prthagjana) chưa có được cái nhìn chân chính vào pháp Phật, người thợ săn tượng trưng cho tà quái, và hủ keo tượng trưng cho lòng mong cầu ái dục. Trong kinh Niết Bàn có một tỷ dụ nói rộng về khuynh hướng [dụng tâm] của phàm phu- tức trói buộc và thiên lệch- giảng sai lạc giáo lý của Phật và Bồ Tát về tâm, nhân duyên, và nhân quả.
3 Từ kinh Niết Bàn, T12.617c.
4 Chan-jan (T46.215b27-8) phê bình ở đây rằng: {Cũng có những người vào được lý thậm thâm nhưng chưa có được thực nghiệm, như những vị thiền-sư-đốn-ngộ (tun-wu ch’an-shih) từ Tao-shu thuộc đạo tràng K’uai-chi, có thể biết được pháp thâm sâu nhưng lại hoàn toàn không biết những vấn đề thường nhật}.
5 Chan-jan (T46.215b29-c2) nói: {‘Bản văn’ chỉ cho giáo pháp, ‘Chỉ’ là ý nghĩa hoặc sự diễn đạt. ‘Quy’ là hướng về. ‘Chỉ quy’ có nghĩa là nơi mà giáo pháp hướng về}.
6 Chan-jan (T46.215c2-3) nói tương tự: {Nước và lửa sánh với giáo hoặc pháp, lối quy về như được nói trong bản văn, và biển lớn với trời xanh tượng trưng cho các nơi chốn mà giáo pháp phát sinh}.
7 Chan-jan (T46.215c3-4) nói: {Nếu cái hiểu của các ông thâm nhập vào mật giáo, và hiểu được nguyên lý thâm sâu, thì các ông sẽ không làm phí phạm giáo lý siêu việt, cũng không làm trở ngại những nguyên lý thông thường}.
8 Dựa vào một tỷ dụ trong kinh Niết Bàn, T12.662b. Ở đây Phật so sánh một vị vua ra lệnh mang saindhava đến cho vua. Trong Phạn ngữ, chữ saindhava không rõ nghĩa, có thể đến từ chữ sindhu (sông, Ấn hà, biển, hoặc thành phố Sind), và cũng có thể là ‘thuộc về biển, con ngựa thành Sind, hoặc một người từ thành Sind, muối ở Sind, một bình chứa nước v.v... Kinh đưa ra bốn nghĩa khả dĩ: muối, bình chứa nước, nước, và ngựa. Chỉ có người cận thần thông minh mới có thể đoán biết ông vua nầy muốn vật gì trong bốn thứ theo thời điểm: muối nếu vua đang ăn, bình nước nếu vua muốn uống, nước nếu vua muốn rửa, và ngựa nếu vua muốn ra ngoài. Cũng vậy, người học pháp Phật thông minh biết rằng khi Phật thuyết (Tiểu Thừa) rằng vạn pháp là vô thường, khổ, vô ngã, và bất tịnh; Phật muốn dạy, một cách thâm sâu rằng tánh của vạn pháp là thường, lạc, ngã, và tịnh.
9 Sarvajnabhumi. Hoặc nền tảng hoặc sự chứng đắc Phật trí- tức Bồ Ðề. Danh từ nầy xuất hiện trong kinh Pháp Hoa (đọc T9.19a).
10 Pháp thân, bát nhã, và giải thoát, theo kinh Niết Bàn (T12.616b8-14) trình bày tam Bồ Ðề thường trụ hoặc giác ngộ.
11 Gián tiếp nói đến đoạn kinh nổi tiếng trong phẩm ‘Phương Tiện’ kinh Pháp Hoa (T9.7a 21-28; Hurvitz, 30): {Chư Phật, Thế Tôn xuất hiện trên thế gian nầy vì muốn chúng sinh nghe được tri kiến Phật, và giúp chúng sinh thanh tịnh. Chư Phật xuất hiện... khai thị, ngộ, và nhập tri kiến Phật}.
12 Sarvakarajnata- trí thứ ba và là trí cao nhất nói trong Pancavimsati và Ðại Trí Ðộ Luận, thường được tôn giả Tuệ Tư và Trí Khải nói đến như những thí dụ trong tam đế. Ðọc T25.257c-260c; Lamotte, Traité, 4.1758-1759. Nhất Thiết Chủng Trí là trí Phật và Bồ Tát bất thối chuyển, là những bậc, theo Thiên Thai Tông đã mở Phật nhãn và vào thẳng trung đạo. Trí thứ nhất- Nhất Thiết Trí (sarvajnata) là trí tuệ vào Không, hợp với trí giải thoát của Nhị Thừa và Bồ Tát sơ phát tâm. Trí thứ hai- Ðạo Chủng Trí (margajnata) là trí của Giả đế, hợp với trí tuệ phương tiện thiện xảo của Bồ Tát Ðại Thừa.
13 T12.616b8. Ðoạn văn kinh tiếp tục nói về bí mật tạng tương ưng với ba đức tánh (pháp thân, bát nhã, và giải thoát) trong sự hòa hợp viên mãn. Chúng chẳng đi theo đường tung hoặc đường hoành nhưng hiện diện bình đẳng vẹn toàn như ba dấu gạch làm thành chữ {i} trong văn tự Siddham, hoặc như ba con mắt trên trán của Mahesvara.
14 Trí tuệ thứ ba nói trong ghi chú 12 ở trên.
15 Không rõ xuất xứ về ba chướng ngại nầy. Cũng không thấy trong những chú giải và luận đề của Chan-jan, Kogi, Shiki, Kojutsu.
16 Trong kinh xưng tán cùng tên (T no. 642), đây là tam muội thứ nhất trong 108 đại tam muội ghi trong Ðại Trí Ðộ Luận (và Pancavimsati), T25. 396b27 và 398c27 nói rằng Bồ Tát biết tướng trạng, sự tương ứng, và chiều sâu của tam muội nầy như một tướng quân biết được sức mạnh của binh sĩ. Cũng vậy, một Bồ Tát đã chứng được tam muội nầy thì không một thiên ma, phiền não ma nào có thể làm hại, như một vị chuyển luân vương... có thể vào tất cả mọi nơi không trở ngại. Thiên Thai Tông so sánh với sự chứng đạt được trung đạo, nhất thiết chủng trí, mở được Phật nhãn, vào sơ trụ (của Viên giáo). Ðọc ‘Tiểu Chỉ Quán’, T46.472c9-473a 10.
17 Kogi (2.95) nói rằng không lầm lỗi trong sự nhận thức về sự tướng.
18 Loại thứ nhất trong ba loại giải thoát, hai loại kia là (b) viên tịnh giải thoát, và (c) bản nhiên thanh tịnh giải thoát. Trí Khải nói về những loại giải thoát nầy nhiều nơi trong Maha Chỉ Quán (T46.140b) cũng như trong ‘Duy Ma Kinh Huyền Sớ’ (Wei-mo ching huan-shu, T38.553c2) và ‘Kim Quang Minh Huyền Nghĩa’ (Chin-kuang-ming huan-i, T46.140b) là ‘tam Niết Bàn’. Cũng như Maha Chỉ Quán ở đây, cả ba trường hợp đều được nói đến trong những phần nói về ba đức tánh (pháp thân, bát nhã, và giải thoát).
19 Chan-jan (T46.216a 23-25) và Kogi (2.96) đều nói rằng ‘tam chướng’ nên đi cùng với ‘tam đức’ ở đây. Chan-jan nói: {[Ở đây] có phần luận tổng quát về tam đức và tam chướng, nơi mà những chướng ngại và tánh đức trong sự tương phản [được cho thấy] là không khác, mà đồng thời cũng là khác. Nếu có người luận về chướng và đức theo cái nhìn về lý (li), chúng là bất nhị, và như vậy không có [bất cứ sự phân chia] giữa ‘mới’ và ‘cũ’.
20 Tam chướng (san-chang) nói đến ở đây không khác avarana-traya hoặc phiền não chướng, nghiệp chướng, và sự tương tự thường thấy trong Maha Chỉ Quán, ngoài ba chướng ngại đề cập đến ở trên như vô trí, trói buộc vào hình tướng, và vô minh. Chan-jan (T46.216b2) có ý rằng ba chướng ngại tương tự với tam hoặc : kiến hoặc, tu hoặc và trần sa hoặc (làm chướng ngại phương tiện hạnh của Bồ Tát), và căn bản vô minh (làm chướng ngại trung đạo). Lối nhìn nầy dường như căn cứ vào ‘Pháp Hoa Huyền Nghĩa, T33.742b28-c18’.
21 Chan-jan (T46.216b4-5) nói: {Khi đưa ra tam đức trong đoạn văn, pháp thân phải đi trước, rồi đến bát nhã, và sau cùng là giải thoát. Ðây gọi là theo đường ‘tung’. Nhưng khi luận từng phần một, theo ý nghĩa để một được phát huy và phân tích như ba, thì là theo đường ‘hoành’. Ðây cũng là cái chúng ta gọi là ‘quảng’. Ba thu về một là cái chúng ta gọi là ‘hiệp’. Khởi tâm cầu giác ngộ là ‘thủy’, và chứng quả Bồ Ðề là ‘chung’. Hoặc [thuyết pháp tại] vườn nai là ‘thủy’, và [nằm xuống giữa] hai tàng cây là ‘chung’}.
22 Kogi (2.98) nói: {‘không-chỉ’ vì giáo pháp phải ứng hợp với những mê vọng của họ (thay vì theo chân lý).
23 Tương tự như Chỉ và Quán được hiểu ở đây là kết quả của tu tập hơn là một dụng cụ để đến chỗ cứu cánh.
24 Tên gọi trí Phật, trong kinh Pháp Hoa (T9.32b29).
25 Từ phẩm kinh cùng tên trong kinh Duy Ma Cật, T14.546b-c. Một Bồ Tát đạt đến giải thoát có thể đặt núi Tu Di vào một hạt cải, biển lớn vào một lỗ chân lông, nắm cả vũ trụ trong bàn tay, và khiến thời gian dài ngắn theo ý muốn- vì Bồ Tát đã chứng ngộ được tánh rỗng lặng của tất cả những điều nầy.
26 Kogi (2.100) nói rằng câu thứ nhất trong ba câu hỏi nầy xóa bỏ danh (chủ quan), câu thứ hai xóa bỏ sắc (khách quan), và câu thứ ba xóa bỏ ngã ( nhìn như hiện hữu). Không có gì còn lại.
27 Sarva-vada-carya-uccheda.
28 Citta-pravrtti-sthiti-nirodha.
29 Những bài giảng về phẩm X, như nói trên, đã không bao giờ được hoàn thành.

Thư mục

A Tỳ Ðạt Ma Câu Xá Luận của Thế Thân, Huyền Trang dịch, T vol. no. 1558.
A Tỳ Ðạt Ma Tỳ Bà Sa luận, Huyền Trang dịch, T vol. 27, no.1545.
A Xà Thế Vương Vấn Ngũ Nghịch Kinh, Pháp Cự dịch, T vol. 14, no. 508.
Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo Kinh, Bồ Ðề Ðăng (Bodhidipa) dịch, T vol. 17, no. 839.
Thiền Môn Quy Thức, Hoài Hải, T 51.250c-251b.
Trường A Hàm Kinh, Giác Minh (Buddhayasas) và Trúc Phật Niệm (Chu Fo-nien) dịch, T vol. 1, no. 1.
Thành Thật Luận, Cưu Ma La Thập dịch, T vol. 32, no. 1646.
Thất Phật Bát Bồ Tát Sở Thuyết Ðà La Ni Thần Chú Kinh, không rõ người dịch vào đời Ðông Tấn, T vol.21, no. 1332
Già Da Sơn Ðỉnh Kinh, Bồ Ðề Lưu Chi (Bodhiruci) dịch, T vol. 14. no. 465.
Thiên Thủ Nhãn Ðại Bi Tâm Chú Hành Pháp, Tri Lễ (Chih-li), T vol. 46, no. 1950.
Trí Giả Ðại Sư Truyện Luận, Phật Tổ Thống Kỷ, T49. 440a-c.
Chỉ Quán Phụ Hành Truyền Hoằng Quyết, Trạm Nhiên, T vol.46, no. 1912.
Chỉ Quán Nghĩa Lệ, Trạm Nhiên, T vol. 46, no. 1913.
Chỉ Quán Ðại Ý, Trạm Nhiên, T vol. 46, no. 1914.
Kim Quang Bát Nhã Ba La Mật Kinh, Cưu Ma La Thập, T vol. 8, no. 235.
Kim Quang Bát Nhã Ba La Mật Kinh Luận, Thế Thân, Bồ Ðề Lưu Chi dịch, T vol. 25, no. 1511.
Kim Quang Minh Sám Pháp, Trí Khải, Quốc Thanh Bách Lục, T46. 796a-b.
Kinh Lễ Pháp, Trí Khải, Quốc Thanh Bách Lục, T46. 794a-795a.
Cảnh Ðức Truyền Ðăng Lục, Ðạo Nguyên, T vol. 51, no. 2076.
Triệu Luận, Tăng Triệu, T vol. 45, no. 1858.
Tịnh Ðộ Thập Nghi Luận, Trí Khải, T vol. 47, no. 1961.
Thỉnh Quán Thế Âm Sám Pháp, Trí Khải, Quốc Thanh Bách Lục, T46.795b-796a.
Thỉnh Quán Thế Âm Bồ Tát Tiêu Phục Ðộc Hại Ðà La Ni Kinh, Nan Ðề dịch, T vol. 20, no. 1043.
Thỉnh Quán Âm Kinh Sớ, Quán Ðảnh, T vol. 39, no. 1800.
Cứu Cánh Nhất Thừa Bảo Tánh Luận, Lặc Na Ma Ðề (Rattnamati) dịch, T vol. 31, no. 1611.
Cưu Ma La Thập Pháp Sư Ðại Nghĩa, Cưu Ma La Thập và Lô Sơn Huệ Viễn, T vol. 45, no. 1856.
Chư Pháp Vô Hành Kinh, Cưu Ma La Thập dịch, T vol. 15, no. 650.
Chú Duy Ma Cật Kinh, Tăng Triệu, T vol. 38, no. 1775.
Xuất Diệu Kinh, Trúc Pháp Niệm dịch, T vol. 4, no. 212.
Giác Ý Tam Muội, Trí Khải. (Ðọc Thích Maha Bát Nhã Ba La Mật Kinh Giác Ý Tam Muội).
Trung Luận, Long Thọ, Cưu Ma La Thập dịch, T vol. 30. No. 1564.
Trung A Hàm Kinh, Tăng Già Ðề Bà dịch, T vol. 1, no. 26.
Pháp Hoa Kinh An Lạc Hạnh Nghĩa, Tuệ Tư, T vol. 46. no. 1926.
Pháp Hoa Kinh Sớ (Ðạo Sinh), HTC vol. 150.
Pháp Hoa Kinh Nghĩa Ký, Pháp Dung, T vol. 33, no. 1715.
Pháp Hoa Huyền Nghĩa, Trí Khải. Ðọc Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa.
Pháp Hoa Huyền Nghĩa Thích Tiêm, Trạm Nhiên, T vol. 33, no. 1717.
Pháp Hoa Tam Ðại Bộ Bổ Chú, Tùng Nghĩa, HTC vols. 43-44.
Pháp Hoa Tam Muội Sám Nghi, Trí Khải, T 46, no. 1941.
Pháp Hoa Thập Diệu Bất Nhị Môn Thị Châu Chỉ, Nguyên Thanh, HTC 100.
Pháp Hoa Văn Cú, Trí Khải. Ðọc Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú.
Pháp Hoa Văn Cú Ký, Trạm Nhiên, T34. 1719.
Phương Ðẳng Sám Pháp, Trí Khải, T46.796b-798c.
Phương Ðẳng Tam Muội Hành Pháp, Trí Khải, T46.1940.
Phương Ðẳng Ðà La Ni Kinh. Ðọc Ðại Phương Ðẳng Ðà La Ni Kinh.
Phật Tổ Thống Kỷ, Chí Bàn, T49.2035.
Phú Pháp Tạng Nhân Duyên Truyện, Ðàm Diệu, T50.2058.
Tượng Pháp Quyết Nghi Kinh, T85. 2870.
Tiểu Chỉ Quán, Trí Khải. Ðọc Tu Tập Chỉ Quán Tọa Thiền Pháp Yếu.
Tâm Kinh. Ðọc Bát Nhã Ba La Mật Ða Tâm Kinh.
Tu Tập Chỉ Quán Tọa Thiền Pháp Yếu, Trí Khải, T46. 1915.
Hoa Thủ Kinh, Cưu Ma La Thập, T16.no.657.
Hoa Nghiêm Kinh. Ðọc Ðại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh.
Hoằng Minh Tập, Tăng Hựu, T52.2102.
Nhân Vương Kinh. Ðọc Nhân Vương Bát Nhã Ba La Mật Kinh.
Nhân Vương Bát Nhã Ba La Mật Kinh, Cưu Ma La Thập dịch, T8.245.
Như Lai Bí Mật Tạng Kinh, không rõ người dịch, T17.821.
Như Lai Tạng Kinh. Ðọc Ðại Phương Ðẳng Như Lai Tạng Kinh.
Thụy Ũng Kinh. Ðọc Thái Tử Thụy Ũng Bổn Khởi Kinh.
Quán Âm Dung Tâm Giải, Tri Lễ. Ðọc Tứ Minh Tôn Giả Giáo Hành Lục, T46. 865c-868a.
Quán Phật Tam Muội Hải Kinh, Phật Ðà Bạt Ðà (Buddhabhadra) dịch, T15.643.
Quán Tâm Luận, Trí Khải, T46. no. 1920.
Quán Tâm Luận Sớ, Quán Ðảnh, T36. No. 1921.
Quán Hư Không Tạng Bồ Tát Kinh, Ðàm Ma Mật Ða (Dharmamitra) dịch, T9. No. 277.
Quán Phổ Hiền Kinh. Ðọc Quán Phổ Hiền Bồ Tát Hành Pháp Kinh.
Quán Phổ Hiền Bồ Tát Hành Pháp Kinh, Ðàm Ma Mật Ða dịch, T9. 277.
Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ, Trí Khải, T37.1750.
Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ, Thiện Ðạo, T37.1753.
Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ Diệu Tông Sao, Tri Lễ, T37.1751.
Quốc Thanh Bách Lục, Quán Ðảnh, T46.1934.
Lăng Già A Bạt Ða La Bảo Kinh, Cầu Na Bạt Ðà La (Gunabhadra) dịch, T16.670.
Lập Chế Pháp, Trí Khải, đọc Quốc Thanh Bách Lục T46.793b-794a.
Lục Tức Nghĩa, Hạnh Mãn, HTC 100.
Lục Diệu Pháp Môn, Trí Khải, T46.1917.
Maha Chỉ Quán Phụ Hành Giảng Nghĩa, Chiku.
Maha Chỉ Quán Phụ Hành Giảng Thuật, Shudatsu.
Di Lặc Hạ Sanh Thành Phật Kinh, Cưu Ma La Thập dịch T14.454.
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, Cưu Ma La Thập dịch, T9.262.
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa, Trí Khải, T36.1716.
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú, Trí Khải, T34.1718.
Maha Chỉ Quán, Trí Khải, T46.1911.
Maha Chỉ Quán Phụ Hành Sưu Yếu Ký, Trạm Nhiên, HTC. 99
Maha Bát Nhã Ba La Mật Kinh, Cưu Ma La Thập dịch, T8.223.
Maha Bát Nhã Ba La Mật Ðại Minh Chú Kinh, Cưu Ma La Thập dịch, T8.250.
Maha Tăng Kỳ Luật, Phật Ðà Bạt Ðà và Pháp Hiển dịch, T22.1425.
Ban Châu Tam Muội Kinh, Chi Lâu Ca Sấm (Lokaksema) dịch, T13.418.
Hiền Hộ Bồ Tát Kinh, không rõ người dịch, T13.419.
Bát Nhã Ba La Mật Ða Tâm Kinh, Huyền Trang dịch, T8.251.
Bi Hoa Kinh, Ðàm Vô Sấm dịch, T3.157.
Biệt Lập Chúng Chế, Tuân Thức, HTC 101.309-311a.
Phổ Lễ Pháp, Trí Khải. Ðọc Quốc Thanh Bách Lục, T46.795a-b.
Bồ Tát Ðịa Trì Kinh, Ðàm Vô Sấm dịch, T30.1581.
Bồ Tát Anh Lạc Bản Nghiệp Kinh, Trúc Phật Niệm, T24.1485.
Tam Quán Nghĩa, Trí Khải, HTC 98.
Tam Báo Luận, Lô Sơn Huệ Viễn. Ðọc Hung-ming-chi, T52.34b-34c.
Sách Ðịnh Chỉ Quán, Lương Túc, HTC 99.
Thắng Man Sư Tử Hống Nhất Thừa Ðại Phương Tiện Phương Quảng Kinh, Cầu Na Bạt Ðà La dịch, T12.353.
Thích Thiền Ba La Mật Thứ Ðệ Pháp Môn, Trí Khải, T46.1916.
Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận, Long Thọ. Cưu Ma La Thập dịch, T26.1521.
Thích Môn Quy Kính Kinh, Ðạo Tuyên, T45.1896.
Thích Maha Bát Nhã Ba La Mật Kinh Giác Ý Tam Muội, Trí Khải, T46.1922.
Thập Bất Nhị Môn, Trạm Nhiên, T46.1927.
Thập Bất Nhị Môn Chỉ Yếu Sao, Tri Lễ, T46.1928.
Thập Tụng Luật, Công Ðức Hoa (Punyatara) và Cưu Ma La Thập dịch, T23.1435.
Thập Ðịa Kinh Luận, Thế Thân. Bồ Ðề Lưu Chi dịch, T26.1522.
Sử Thiệp Diên Khánh Tự, Tri Lễ. Ðọc Tứ Minh Tôn Giả Giáo Hành Lục, T46.909a-910a.
Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội Kinh, Cưu Ma La Thập dịch, T15.642.
Tứ Giáo Nghĩa, Trí Khải, T46.1929.
Tứ Phần Luật, Giác Minh Sa Môn và Trúc Phật Niệm, T22.1428.
Tư Ích Phạm Thiên Sở Vấn Kinh, Cưu Ma La Thập dịch, T15.586.
Tứ Minh Tôn Giả Thực Lục, Tắc Toàn. Ðọc Tứ Minh Tôn Giả Giáo Hành Lục, T46.919b-920a.
Tứ Minh Thập Nghĩa Thư, Tri Lễ, T46.1936.
Tứ Minh Tôn Giả Giáo Hành Lục, Tông Hiểu soạn, T46.1937.
Tứ Niệm Trụ, Trí Khải, T46.1918.
Tùy Thiên Thai Trí Giả Ðại Sư Biệt Truyện, Quán Ðảnh, T50.2050.
Tùy Tự Ý Tam Muội, Tuệ Tư, HTC.98.
Ðại Trí Ðộ Luận, Long Thọ. Cưu Ma La Thập dịch, T25.1509.
Ðại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, Phật Ðà Bạt Ðà dịch, T9.278.
Ðại Phương Tiện Phật Báo Ân Kinh, không rõ người dịch, T3.156.
Ðại Phương Ðẳng Như Lai Tạng Kinh, Phật Ðà Bạt Ðà dịch, T16.666.
Ðại Phương Ðẳng Ðại Tập Kinh, T13.397. Dharmaksema dịch.
Ðại Phương Ðẳng Ðà La Ni Kinh, Pháp Chúng, T21.1339.
Ðại Phật Ðảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh, Pan-tz’u-mi-ti dịch, T19.945.
Ðại Hoa Nghiêm Trưởng GiảVấn Phật Na La Diên Luật Kinh, T14.547.
Ðáp Hoàn Huyền Minh Báo Ũng Luận, Lô Sơn Huệ Viễn. Ðọc Hung-ming-chi, T52.33b-34a.
Ðại Bát Niết Bàn Kinh, Dharmaksema dịch, T12.374.
Ðại Bát Niết Bàn Kinh, Huệ Nghiêm dịch và hiệu đính, T12.375.
Ðại Bát Niết Bàn Kinh Tập Giải, Bảo Lượng, T37.1763.
Ðại Bảo Tích Kinh, Bồ Ðề Lưu Chi dịch, T11.310.
Ðại Thừa Khởi Tín Luận, Mã Minh, T32.1666.
Ðại Thừa Nghĩa Chương, Tịnh チnh Huệ Viễn, T44.1851
Thái Tử Thụy Ũng Bổn Khởi Kinh, Chi Khiêm, T3.185.
Thiên Trúc Biệt Tập, Huệ Quán HTC 101.
Thiên Trúc Tự Thập Phương Trụ Trì Nghi, Tuân Thức HTC101.306b-309a.
Thiên Thai Thiền Lâm Tự Tỵ, Lương Túc. Ðọc Phật Tổ Thống Kỷ, T49.438b-c.
Thiên Thai Giáo Tùy Hàm Mục Lục, Tuân Thức, HTC 101.263b-266b.
Thiên Thai Chỉ Quán Thống Lệ, Lương Túc. Ðọc Phật Tổ Thống Kỷ, T49.438c-440a.
Thiên Thai Tứ Giáo Nghi, Ðế Quán, T46.1931.
Tạp A Hàm Kinh, Cầu Na Bạt Ðà La dịch, T2.99.
Thiên Thai Tổ Thừa Ký, Tuân Thức, THTC 101.262b-263b.
Tạp A Tỳ Ðàm Tâm Luận, Pháp Cứu tôn giả (Dharmatrata) soạn. Tăng Già Bạt Ma (Sanghavarman) dịch, T28.1552.
Tăng Tu Giáo Uyển Thanh Quy, Tự Khánh, HTC. 101.
Tăng Nhất A Hàm Kinh, Tăng Già Ðề Bà (Sanghadeva) dịch, T2.125.
Tối Diệu Thắng Ðịnh Kinh, Quan Khẩu Chân Ðại , Tokyo: Iwanami bunko, 1969. Thiên Thai Chỉ Quán Nghiên Cứu.
Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, Cưu Ma La Thập dịch, T14.475.
Duy Ma Kinh Huyền Sớ, Trí Khải, T38.1777.
Vị Tằng Hữu Nhân Duyên Kinh, Ðàm Cảnh dịch, T17.754.
Văn Thù Sư Lợi Sở Thuyết Maha Bát Nhã Ba La Mật Kinh, Mạn Ðà La Tiên (Mandrasena) dịch, T8.232.
Văn Thù Sư Lợi Vấn Kinh, Tăng Già Bà La (Sanghabara) dịch, T14.468.
Văn Thù Sư Lợi Vấn Bồ Ðề Kinh, Cưu Ma La Thập dịch, T14.464.
Ngũ Phần Luật, Phật Ðà Thập (Buddhajiva) và Trúc Ðạo Sinh dịch, T22.1421.
Vô Lượng Nghĩa Kinh, Ðàm-Ma-Già-Ðà-Da-Xá (Dharmagatayasas) dịch, T9.276.
Ương Quật Ma La Kinh, Cầu Na Bạt Ðà La (Gunabhadra) dịch, T2.120.

___________________________________________________

Back

 

Phước Huệ Temple
Address: 365 Victoria St. Wetherill Park, NSW 2164
Phone: (02) 9725 2324, Fax: (02) 9725 5385, Email: phuochue@phuochue.org