NỀN TẢNG PHẬT HỌC THIÊN THAI TÔNG NHỊ ĐẾ ĐƠM HOA TRÊN ĐẤT TRUNG QUỐC
(Foundations of T'ien T'ai Philosophy)
Paul L. Swanson biên soạn Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
Nhà xuất bản Phương Đông 2010
___________________________________________________
PHẦN PHỤ CHÚ BẢN VĂN
Chương Một
-
Dịch từ bản
Hoa ngữ, Taisho shinshu daizokyo, ed., Takakusu Junriro, Watanabe
Kaigyoku, et al., Tokyo: Taisho Issaikyo Kanko Kai, 1924-1934, Vol.
30, page 32, colum c, lines 16-19 [T30, 32c16-19]. Bản dịch Anh
ngữ tác phẩm Mulamadhyama-karikaka, đọc Mervyn Sprung,
Lucid Exposition of the Middle Way: The Essential Chapters from
the Prasannapada of Candrakirti, Boulder: Prajna Press, 1979,
230-231. Về nền tảng chủ đề, đọc những tác phẩm
của Long Thọ Bồ Tát, hoặc triết học Trung Quán như
T.R.V. Murti, The Central Philosophy of Buddhism, London: George
Allen and Unwin, 1960; Fredric J. Streng, Emptiness: A Study in
Religious Meaning, New York: Abingdon Press, 1967; David J.
Kalupahana, Nagarjura, The Philosophy of the Middle Way, Albany:
State University of New York Press, 1986; and David Seyfort Ruegg,
The Litterature of the Madhyamaka School of Philosophy in India,
Wiesbaden: Harrassowitz, 1981. Về nhị-đế, đọc Mervyn
Sprung, (ed.), The Problems of Two Truths in Buddhism and Vedanta,
Boston: D. Reidel Publishing Co., 1973.
2.
Đọc The Prasannapada, Sprung: Lucid, 230; và những đề
mục của Matilel về Sprung: Two Truths, 57; và Murti:
Central, 244.
3. Về
học thuyết Du Già (Yogacarin trisvabhava), đọc những luận
đề của Nagao Gadjin, The Buddhist World-view as Elucidated in
the Three-Nature Theory and Its similies, in the Eastern Buddhist
(New Series), Vol. XVI, No. 1, Sping 1983, 1- 18. Cũng đọc
Janice Dean Willies, On Knowing Reality, New York: Columbia
University Press, 1979.
4.
Đọc Nagao Gadjin, From Madhyamaka to Yogacarin: An Analysis of
MMK, XXIV.18 and MV I.1-2, Journal of the International Association
of Buddhist Studies, Vol. 2, No.1, 28-43.
5.
Nguyên bản Phạn ngữ, đọc Vol. IV of the Bibliotheca
edited by Louis de la Valleé Poussin, Malamadhyamakakaraka
(Madhyamikasutras) de Nagarjuna avec la Prasannapada Commentaire de
Candrakirti, Biblio verlag, Osnabruck, 1970, 491, và J.W. de Jong,
ed., nagarjuna Mulamadyamakakarika, Madras: The Adyar Library and
Research Centre, 1977, 35. Với những bản dịch Prasannapada
khác qua văn tự Tây phương, đọc J. W. de Jong, Cinq
Chapitres de la Prasannapada, Paris: Paul Geuthner, 1949; Jaques
May, Candrakirti Prasannapada Madhyama- kavrti, Paris: Adrien
Maisoneuve, 1959; và T. Stcherbatsky, 1977.
6.
Đọc Kalupahana, Nagarjuna, 339-341.
7.
Étienne Lamotte, (bản dịch Anh ngữ của Sara Boin), the
Teaching of Vimalakirti, London: The Pali Text Society,
1976, 1xiv.
8.
Nagao, An Analysis of MMK, XXIV.18, 31.
9.
Đọc Richard Robinson, Early Madhyamika in India and China,
Dehhi: Motilal Banarsidass, 1976, 40.
10.
Sprung, Lucid, 238.
11.
Streng, Emptiness, 213.
12.
Trong bản Taisho, “sunyata” được dịch là “vô”
dù rằng bất cứ nơi nào Thiên Thai Trí Khải dẩn
chứng thì một chữ trực tiếp và chính xác hơn được
dùng là chữ “không”. Không rõ trong nguyên bản dịch
của sư Cưu Ma La Thập, hoặc là sư đã dùng chữ “vô”,
hoặc là đây là lỗi ấn loát. Nếu trong nguyên bản
dịch Malamadhyama-kakarika, phẩm 24, câu kệ 18 của sư Cưu
Ma La Thập, chữ “vô” được dùng để dịch chữ
“sunyata”, thì đây là sự xuất hiện trong giai đoạn
sơ thời, với những danh từ khó diễn tả cho đúng, và
nghĩa dường như mơ hồ, giống như chữ “hữu”. Ý
nghĩa của những chữ nầy sẽ được nói sau.
13.
Đọc David J. Kalupahana, Causuality: The Central Philosophy of
Buddhism, Honolulu: University Press of Hawaii, 1975; và Étienne
Lamote, Histoire du Bouddhisme Indien, Bibliotheque du Maséon,
vol.43, Louvain, 1958, 33-43.
14.
Sprung, Lucid, 239.
15.
Đọc Richard Robinson, Did Nagarjuna really refute all
philosophycal view?. Philosophy East and West, Vol.22, No.3, July
1972, 325-331.
16.
Đọc De Jong, The Problem of the absolute in the Madhyamaka
School, Journal of Indian Philosophy, 2 (1972), 1-6, trong đó,
tác giả nói: “Triết học nầy khác với tất cả
những triết học mà [Long Thọ Bồ Tát] đã công kích,
nơi đó bỏ ra ngoài một sự khả dĩ dựng lập một
bản thể học”.
17.
Đọc Nakamura Hajime, Chùdo to kùken: Santaige no kaishaku ni
kanren shite, Bukkyo shisoshi ronshu, Tokyo: daizo Shuppan, 1964,
139-180.
18. Đọc,
thí dụ, Malcolm David Eckel, Jnanagarbha's Commentary on the
Distinction Between the Two Truths, Albany: State University of New
York Press, 1987, 38.
19. Đọc
Sprung: Lucid, 238-239, và B.K. Matilal, Epistemology, Logic, and
Grammar in Indian Philosophical Analysis, The Hague / Paris:
Mouton, 1971, 148-151.
20. Phần
theo sau tóm lược tranh luận của Thiên Thai Trí Khải đưa
ra trong Mo ho Chih kuan, T46, 5b-6a.
21. T12,
682cff. Đây là một bản dịch Anh ngữ đầy đủ của
Yamamoto Kosho, the Mahayana Mahaparinirvana Sutra, Ube:
Karinbunko, 1975, đưa vào ba chương, nhưng tôi đã tự
dịch đoạn kinh văn nầy. Phần trên có thể tìm thấy
trong Yamamoto, 317ff.
22. Phật
giáo truyền thống đưa ra những liệt kê khác nhau về
bốn loại tâm, hoặc các trạng thái tâm thức, cả
thiện lẫn ác, nhưng đoạn văn ở đây có ý nói đến
bốn loại tâm ô nhiễm. The Bukkyokaku Jiten (Kyoto: Hozokan,
1955, 276a), đặc biệt dùng văn tự của Thiên Thai Tông,
kể ra bốn loại tâm ô nhiễm: tham, sân, si, và cả ba
loại trên. Bản kể tên nầy được đưa ra trong luận
đề từ Shikan bugyo kogi; đọc Bukkyo Tendai: Mo ho Chih
kuan, nói đến kiến hoặc rằng có một cái ngã, kiến
hoặc về cái làm nên ngũ uẩn, tức thân và tâm,
là ngã kiến, ngã ái, và ngã mạn. Đọc Donner, The Great
Calming and Contemplation of Chih-i. Chương Một: The Synopsis,
Ph.D. dissertation, The University of British Columbia, April,
1976, 185, note 107.
23. Khảo
luận thâm sâu hơn về hệ thống Phán Giáo của Thiên
Thai Tông, đọc tài liệu tiên phong của Hurvitz, Chih-i
(538-597): An Introduction to the Life and Ideas of a Chinese
Buddhist Monks, Mélanges chinois et bouddhiques, Douziéme volume:
1060-1962, đặc biệt các trang 205-271. Khuyết điểm của
Hurvitz là ông đã đi theo hệ thống phát triển sau nầy
về Phán Giáo trong Thiên Thai Tông của Đế Quán (971) là
một tăng sĩ người Đại Hàn, tức “Thiên Thai tứ giáo
nghi” hơn là theo chính tác phẩm của Trí Khải. Có thể
tìm được tài liệu tham khảo và bản dịch “Thiên
Thai tứ giáo nghi” trong David Chappell, T'ien T'ai Buddhism:
An Ouline of the Fourfold Teachings, Tokyo: Daiichi Shobo, 1983.
24.
Tham khảo đáng tin cậy về Thập Như Thị, đọc
Hurvitz, Chih-i, 289ff. Tôi sẽ ghi lại chi tiết về đề
tài nầy trong chương thứ 8, và trong những ghi chú trong
bản dịch. Chữ “suchlike” là một lối dịch gượng,
là một trong những danh từ chuyên môn khó dịch sang một
ngôn ngữ khác mà giữ được trọn nghĩa. Vì những lý
do kỹ thuật, tôi dò theo bản dịch của Hurvitz, hy vọng
mạch văn sẽ trở nên sáng tỏ hơn, cố gắng mô phỏng
hai chữ nầy, là hai từ ngữ mang theo một ý nghĩa quan
trọng trong triết học của Thiên Thai Trí Khải.
25.
Hurvitz, Chih-i, 271ff.
26. Tôi
sẽ tham khảo về hai bản văn nầy trong chương Ba.
27. T38,
No. 1777, 519-562. Chỗ khế hợp nầy cũng thấy trong “Tứ
Giáo Nghi” của Thiên Thai Trí Khải (T46, 728a 19-21).
28. Ba
bộ nầy nằm trong Tích môn thập diệu, nửa quyển đầu
của kinh Pháp Hoa. Bản môn thập diệu thì ở nửa phần
cuối của kinh Pháp Hoa, và quán tâm thập diệu. Thiên
Thai Trí Khải không nói chi tiết về hai nhóm sau, nhưng
nhóm thứ nhất thì nói rất đầy đủ trong Pháp Hoa
Huyền Nghĩa. Đọc chương tám.
Chương Hai
-
Chi tiết về
cuộc đời sư Cưu Ma La Thập, đọc phần tiểu sử trong
Kao seng chuan, T50, No. 2059, 330a-333a. Ngoài ra, nên đọc
Robinson, Early Madhyamika, 71ff. Luận về sư Cưu Ma La Thập,
đọc Robinson, 244-247, note 1.
-
Danh sách những
tác phẩm về sư Cưu Ma La Thập, đọc Bagchi, Le canon
bouddhique en Chine: Les traducteurs et les traductions, Paris:
Librairies Orientaliste Paul Geuthner, 1927, 185-200. Cũng nên
đọc Mochizuki's Bukkyo- daijiten, Kyoto: Sekai Seiten Kanko
kyokai, 1957, 715-717.
-
Robinson, Early
Madhyamika, 190.
-
Robinson, Early
Madhyamika, 192.
-
Robinson, Early
Madhyamika, 189.
-
Đại Trí Độ
Luận: “Các vị Thanh văn qua pháp tứ diệu đế mà đạt
đạo. Các Bồ tát vào đạo từ nhất đế. Phật thuyết
rằng tất cả bốn đế đều là một đế. Vì phân chia
nên nói có bốn, nhưng thực sự bốn đế, hai thừa,
trí tuệ, và giải thoát, tất cả đều bao gồm trong
một đế”. (T25, 662b).
-
Robinson, Early
Madhyamika, 193.
-
Robinson, Early
Madhyamika, 94.
-
Đọc Lamotte,
tr., Le traité de la grande vertu de sagesse, Vol. 56-114. Tôi đi
theo bản dịch của Lamotte, đưa ra những tên gọi qua
Phạn ngữ, nếu có thể được. Khi dẩn chứng Đại
Trí Độ Luận tôi ghi T. page hơn là dùng của Lamotte, vì
bản dịch của Lamotte chỉ đến ba phần đầu của Đại
Trí Độ Luận, và tôi đã trưng dẩn nhiều đoạn văn
không có trong bản dịch của Lamotte. Hơn nữa, mỗi trang
trong bản dịch của Lamotte ghi T. page trong nội dung, vì
thế, những đoạn văn tôi dẩn chứng từ bản dịch
của Lamotte có thể tìm thấy dễ dàng khi đối chiếu.
Tuy nhiên, không nghi ngờ rằng tôi rất tri ân đường
lối phiên dịch, ghi chú, và những từ Phạn ngữ rõ
ràng của Lamotte trong bản phiên dịch ba phần đầu của
Đại Trí Độ Luận.
-
Lamotte nhìn kinh
nầy như một phần của Samyuttanikaya. Đọc 67, note 2.
-
Đọc:
Mulamadhyama-kakarika T30, 18c7-8; Sprung Lucid, 149; Strength:
Emptiness, 198. những bản văn nầy chỉ có bài kệ thứ
nhất trong ba bài kệ, và tiếp theo là bài kệ “Người
thắng vạn quân [ma] nói rằng “Không” là sự từ chối
tất cả kiến [giải], nhưng kẻ nào nắm giữ Không như
một kiến [giải], thì kẻ đó khó cứu được.” [T30,
18c16-17]. Đại Trí Độ Luận tiếp tục với hai bài kệ
không tìm thấy trong những bản văn Mulamadhyama-kakarika
nói trên. Lamotte suy luận có thể sư Cưu Ma La Thập đã
dùng bản văn có thêm thắt vào bản Mulamadhyama-
kakarika.. Đọc Lamotte, note 1.
-
Chữ siddhanta
từ chữ gốc sidh có nghĩa là thành tựu hoặc
hoàn thành. Monier- Williams định nghĩa siddhanta có
nghĩa là mục tiêu, mục đích cuối cùng hoặc cứu
cánh, đưa ra kết luận, hòa giải ý kiến hoặc chủ
trương, học thuyết, định lý, nhận hoặc thừa nhận
sự thực…văn bản mới, cũ, hoặc luận đề có tính
cách khoa học trên bất cứ chủ đề nào…đặc thù về
các tác phẩm Phật giáo hoặc Jaina giáo”. A
Sanskrit-English Dictionary, Oxford: Clarendon Press, 1899, 1216.
-
Lamotte, 27, note
1.
-
Về những xuất
xứ khác, đọc Lamotte, 29, note 1.
-
Không rõ xuất
xứ, đọc Lamotte, 32, note 1.
-
Nhìn như một
phần của Samyuttanikaya, đọc Lamotte 32, note 2.
-
Lamotte ghi đoạn
văn nầy với T4, No.198, kinh Phật giáo nguyên thủy,
174-188: đọc 39, note 2. Tôi không tìm được đoạn kinh
văn khế hợp với bài kệ nầy, mặc dù những bài kệ
179c17ff cũng mơ hồ tương tự.
-
Đọc Murti:
Central, 98-100.
-
Không rõ xuất
xứ. Đọc Lamotte, 46, note 1.
-
Đọc Chương
Một; và Sprung: Lucid, 230-232.
-
Một số tư liệu
bất xứng liên quan đến sư Tăng Triệu đã được dịch
sang văn tự Tây phương. Có thể tìm thấy những bản
dịch và phân tích về những tác phẩm của Tăng Triệu:
Walter Liebenthal, Chao Lun, The Treatises of Seng chao, (tái bản
lần thứ hai), Hong Kong: Hong kong University Press, 1968;
Tsukamoto Zenryu, (ed), Joron kenkyu, Kyoto: Hozokan, 1955;
Robinson, Early Madhyamika, 123ff; Chan Wing-tsit, A Source Book in
Chinese Philosophy, Princeton: Princeton University Press, 1969,
343ff; và Fung Yu-lan, (Derk Bodde, tr.), History of Chinese
Philosophy, Vol.2, Princeton: Princeton University Press, 1973,
258ff.
-
Về thời đại
sư Tăng Triệu, đọc Robinson, 123, và Joron kenkyu, 121.
-
Chi tiết về
cuộc đời sư Tăng Triệu, đọc Liebenthal, 3-9; Robinson,
123ff; Fung, 258-260.
-
Nghĩa của tựa
đề thì rất mơ hồ, và được phiên dịch nhiều cách
khác nhau như Vô tận không (Emptiness of Non-Absolute /
Robinson), Phi thực không (Emptiness of Unreal / Bokke, Chan),
và sunyata không có nghĩa rằng [vạn vật] chẳng có
gì cả (Liebenthal). Liebenthal đã dùng cặp chân-không để
giải thích sự chọn lựa hợp lý của tác giả khi
phiên dịch tựa đề như trên, trang 61-62, ghi chú 222.
Những bản dịch khác lấy cặp bất-chân để nói về
sunyata. Nội dung của những tập sách nầy luận về
sunyata và nhị đế qua hữu và vô, với kết luận rằng
chân đế thì chẳng có chủ thể cũng chẳng phải là
không có gì cả. Tựa đề nhờ vậy có thể hiểu được,
như Liebenthal đã, khi nói rằng ý nghĩa của sunyata không
ám chỉ rằng thế giới hiện tượng hoàn toàn bất-hữu,
hoặc là không. Vì luận đề là sự phân tích về nghĩa
muốn đưa ra khi diễn tả hiện tượng là “không”,
những bản dịch khác cũng có giá trị nếu “bất
tuyệt [đối]” và “phi chân” được hiểu rằng chỉ
cho thế giới hiện tượng.
-
Những cuộc luận
bàn buổi sơ thời nầy ít được biết đến, và gọi
lầm là “phái”, vì không gì chứng minh rằng họ đại
diện cho một truyền thống dài lâu hoặc một hệ thống
giáo điều nào. Những mặt nầy được nói chi tiết
trong Cát Tạng, Trung quán luận sớ , là một luận đề
về Mulamadhyamika-karika (T42, no. 1824, 29a-c), và trong một
tác phẩm về sư Cát Tạng do một vị tăng là Ancho
(763-814); T65, 92b-96c) biên soạn. Chủ đề nầy được
nói chi tiết trong chương bảy về sư Cát Tạng và Tam
Luận Tông. Những lối giải thích về các khuynh hướng
nầy được nhuận sắc bởi người đời sau. Thêm chi
tiết, đọc Liebenthal, 131-150; Fung, 243-258; Whalen Lai,
Further Developments of the Two Truths Theory in China,Philosophy
East and West, 30/2 (1980), 139-162; Leon Hurvitz, The First
Systemizations of Buddhist Thought in China, Journal of Chinese
Philosophy, 2 (1975), 361-388; Chan: Source Book, 336-342; và
Robinson: Early Madhyamika, 162-173.
-
Đại Trí Độ
Luận, T25, 105a7?. Đọc Liebenthal, 57, note 193.
-
Mulamadhyamika-karika,
T30, 7c16?.
-
Liebenthal, 57,
note 197.
-
Robinson: Early
Madhyamika, 224.
-
Đọc Fukushima
Kosai, Ryodai nitai shiso no tokushitsu: Sojo no nitaisetsu to no
karen ni tsuite, Bukkyogaku Seminar, No. 2, oct. 1965, 47.
-
Cũng đọc những
bản dịch phần trên trong Đại Trí Độ Luận.
-
Đọc Fung, Vol.
2, chapter 5, 6, 186ff.
Chương Ba
-
Đọc Sato
Tetsuei, Tendai Daishi no kenkyu, Kyoto: Hya'ka-en, 1961, 684-712,
và Zoku Tendai Daishi no kenkyu, Kyoto: 1981, 72-112. Tất cả
những tác phẩm trong đời Sato hướng sự thâm cứu về
Thiên Thai Trí Khải, ông đặc biệt lưu tâm đến khái
niệm về tam đế trong tương quan với nhị đế.
-
Tựa đề đầy
đủ của bản văn nầy là “Phật Thuyết Nhân Vương
Bát Nhã Ba La Mật Kinh”, T8, No. 245, 824-834, bản dịch
được cho là của sư Cưu Ma La Thập. Có một bản thứ
hai là “Nhân Vương Hộ Quốc Bát Nhã Ba La Mật Đa
Kinh”, T8, No. 246, 834-845, cho là do sư Amoghavajra (Bất
Không / 704-774) dịch, nhưng theo Sato thì cả hai bản văn
nầy đều là ngụy tác bằng viết bằng Hoa ngữ.
-
Tựa kinh đầy
đủ là “Bồ Tát Anh Lạc Bản Nghiệp Kinh”, T24, No.
1485, 1010-1023. , được cho là do sư Trúc Phật Niệm dịch.
-
Nakamura Hajime,
Chudo to kuken, 147.
-
Sato: Zoku,
114-118, 124-126.
-
Có hai bản văn
còn lưu hành. Tam Pháp Độ Luận, T25, No. 1506, 15-30. Sư
Gautama Samghadeva dịch năm 391, và Tứ A Hàm Mộ Sao Giải,
T25, No. 1505, 1-15, do sư Kumarasona dịch năm 382. Thêm chi
tiết đọc Bussho kaisetsu daijiten Vol. 4, 109-110 và 168-169.
Cũng nên đọc The Literature of the Pudgalavadins, Thích Thiên
Châu, Journal of the International Association of Buddhist Studies,
Vol. 7, No. 1, 1984, 7-16.
-
Bản văn gần
nhất mà tôi có thể tìm được trong Collection of
Miscellaneous Agamas, No. 335, T2, 92c12-26, tựa đề là “ Đệ
Nhất Nghĩa Không Kinh”. Bản văn ngắn nầy như sau:
“
Khi thấy, không
có gì đến. Khi diệt [cái thấy], không có gì đi. Trong
đường hướng nầy thì cái thấy không thực khi sinh,
sau khi sinh thì diệt. Có nghiệp báo, nhưng không có kẻ
tạo tác. Sau khi uẩn nầy diệt, uẩn khác tiếp nối.
Như vậy vượt qua lối nhìn thường tình. Thanh, hương,
vị, xúc, và pháp [năm uẩn kia] cũng được giải thích
tương tự, và vượt qua lối nhìn thường tình. Lối
nhìn thường tình chỉ cho [ý tưởng rằng] “cái nầy
có, vì thế nên có; cái nầy sinh, vì thế nên sinh”.
(T2, 92c16-21).
-
Nguyên bản Phạn
văn, đọc Unrai Wogihara, (ed.), Bodhisattva-bhumi, Tokyo:
Sogokenkyukai, 1930-1936, 292-293.
-
Luận đề về
Bodhisatta-bhumi (Bồ tát địa) của Sugaramegha lưu lại
trong giáo lý Tibetan giải thích như sau: “Thực tướng
(laksana-satya) chỉ cho tánh riêng, chung (svasamanya-laksana)
của tất cả các pháp thiếu vắng chủ thể, và vô
sinh. “Thực ngữ” (vaksatya) chỉ cho ngôn từ chính xác
không sai lệch. “Thực hành” chỉ cho việc làm điều
[hành giả] đã nói là sẽ làm, tức ngôn hạnh tương
ưng.” Đọc Tibetan Tripitaka, Derge edition, Tokyo: Sekai
Seiten Kankokai, Vol. 11, No. 4047, Yi, 248a6-b3.
-
Đọc Hayashiya
Tomojiro, Kyoroku kenkyu, Tokyo: Iwanami Shoten, 1940; Makita
Tairyo, Chugoku Bukkyo ni okeru gikyo kenkyu josetsu (Giới thiệu
phần tham khảo những bản kinh Phật ngụy tác bằng Hoa
văn, đặc biệt những bản văn ở Đôn Hoàng), Toho
Gakuho, No. 35, Tokyo, March 1964, 337-397; và Gikyo kenkyu, Kyoto:
Kyoto Daigaku Jinbun Kagaku Kenkyujo, 1976; và Mochizuki Shinko,
Bukkyo kyoten seiritsu-shi ron, Kyoto: hozokan, 1946.
-
Về bản dịch
và luận Anh ngữ với nguyên bản, đọc Hakeda Yoshito, The
Awakening of Faith, New York: Columbia University Press, 1967; và
những tác phẩm của Whalen Lai như “A Clue to the
Authorship of the Awakening of Faith: Siksananda's Redaction of the
word Nien, Journal of the International Association of Buddhist
Studies 3/1, 1980, 42-59, và “Hu-jan Nien-ch'i”: Chinese
Understanding of Mind and Consciousness, Journal of the
International Association of Buddhist Studies 3/2, 1980, 42-59.
-
Thêm chi tiết,
đọc Mochizki Shinko, 42-59.
-
Một dàn bài Anh
ngữ về các mục lục nầy, đọc Okabe Kazuo, The Chinese
Catalogues of the Buddhist Scriptures, Komazawa Daigaku Kiyo, No.
38, March 1980, 1-13.
-
Đọc Hayashiya,
Kyoroku kenkyu, 333ff.
-
Okabe, Chinese
catalogues, 6.
-
Okabe, Chinese
catalogues, 7.
-
Thêm chi tiết,
đọc M.W. De Visser Ancient Buddhism in Japan: Sutras and
Ceremonies in Use in the Seventh and Eighth Centuries A.D. And Their
History in Later Times, Leiden: E. j. Brill, 1935, Vol. 1, 116-190.
Tác phẩm nầy phải rất cẩn thận khi sử dụng [làm
tài liệu] vì cho thấy tác giả không biết rằng Nhân
Vương Kinh là một bản kinh ngụy tác viết bằng Hoa ngữ.
-
Đọc Sato:
Tendai, 686.
-
Đọc Sato:
Tendai, thêm chi tiết 688-690.
-
Hurvitz, Chih-i,
275.
-
Điều quan trọng
rằng bản kinh Nhân Vương “hiệu đính” tin rằng do sư
Bất Không biên soạn tránh nói về cấu trúc của tam đế,
và [nhấn mạnh] vào nhất đế và sự đồng nhất với
nhị đế [T8, 839a-c]. Có thể rằng vào thời điểm nói
trên, vấn đề từ việc sử dụng hai bản dịch Hoa ngữ
với một bản Phạn ngữ, và được tránh đi bằng cách
nhấn mạnh trên sự đồng nhất của nhị đế.
-
T10, No.281,
446-451, được phiên dịch ra Hoa ngữ khoảng năm 223 và
253. Bản văn nầy đưa ra những đề tài như nhiều Phật
độ, thập địa Bồ tát, và hạnh Bồ tát của cư sĩ.
Về sau được phối hợp với kinh Hoa Nghiêm.
-
T16, No.656, 1-127,
được sư Trúc Phật Niệm dịch sang Hoa ngữ vào năm
376. Trúc Phật Niệm là một trong những dịch giả tài
ba của đời Đông Tấn (351-394), trước thời sư Cưu Ma
La Thập. Sư được Fu-chien, một người có uy thế trong
chính quyền nâng đỡ. Bản văn nầy nói về những hạnh
của Bồ tát, và rất nhiều đề mục liên quan đến
giáo lý Đại thừa.
-
Đọc chi tiết
Sato, Zoku, 75-83.
-
Đọc Sato,
Tendai, 699ff; Sato, Zoku, 84ff.
-
Luận về kinh
Nhân Vương là một bản ngụy tác, đọc Mochizuki, Bukkyo
kyoten, 425-441.
-
Sato, Tendai, 703.
-
Mulamadhyamika-karika
13-7, bản phiên dịch sang Anh ngữ do Ruegg, Madyamaka
Literature, 14.
-
Đọc Collection
of Miscellenous Agamas, T2, 84b19-20; hoặc The
Ratna-gotra-vibhaga, Takasaki Jikido, A Study of the
Ratnagotravibhaga (Uttaratantra), Roma: Istituto Italiano per il
Medio ed Estremo Oriente, 1966, 294-295.
Chương Bốn
1. Tiểu sử,
đọc Kao seng chuan, T50, 366c18.
2. Tiểu sử, đọc
Kao seng chuan, T50, 371b2.
3. Tiểu sử, đọc
Kao seng chuan, T50, 376b28.
4. Đọc Sato
Tetsuei, 1952, 371-379.
5. Đọc Whalen
Lai 1978, 340. Tôi thảo luận về cuộc tranh luận nầy với
khái niệm về Tam Đế của Thiên Thai Trí Khải trong trí
tôi, vì vậy sự phân tích của tôi thiên về chiều
hướng nầy, và không tự cho rằng đã trình bày đầy
đủ dựa trên Quảng Hoằng Minh Tập (Kuang hung ming chi).
Whalen Lai thì nhìn chủ đề với một góc cạnh khác.
Người đọc lưu ý đến chính Quảng Hoằng Minh Tập thì
nên đọc cả hai tập luận của chúng tôi, cũng như
những tác phẩm dẩn đường tiến trình lịch sử văn
học của Sato.
6. Sư Pháp Vân
và sư Tăng Mân, cùng với sư Trí Tạng (đọc chương 6),
được nhìn là những học giả Phật học nổi tiếng
thời bấy giờ. Họ được xưng tụng là “Tam đại
pháp sư đời Lương”. Trong phần tham khảo trước, tôi
đã tìm được danh xưng nầy trong “Pháp Hoa Huyền
Luận” của sư Trí Tạng, T34, 363c17-18.
7. Phần tiểu
sử, đọc Hsu kao seng chuan, T50, 4681-b.
8. Phần tiểu
sử, đọc Hsu kao seng chuan, T50, 461c.
9. Tôi đi theo
cách đọc thay đổi hơn là theo [T. reading].
10. Đọc chương
ba.
Chương
Năm
-
Khác với sư Huệ
Viễn thời gian trước đó (334-416), khế hợp với sư
Cưu Ma La Thập: đọc Chương Hai. Phần tiểu sử của sư
Huệ Viễn nầy, đọc Hsu kao seng chuan, T50, 489c26-492b2.
Chi tiết đầy đủ về đạo nghiệp của sư, đọc
Kamata Shigeo, Joyoji Eon ni okeru daijo shiso no tendai, Toyo
Bunka Kenkyujo Kiyo, No. 34, March, 1964, 1-107.
-
Đọc Tokiwa 1979,
Vol. 1, 5 và Ocho 1958, 1971, và 1979.
-
Phần tiểu sử,
đọc Hsu kao seng chuan, T50, 485a-486a.
-
Chi tiết đọc
phần giới thiệu Ta ch'eng I chang, Kokuyaku Issaikyo:
Shoshu-bu, Vol. 13, Tokyo: Daito Shuppan, (tái bản) 1978, 364.
-
Phần luận về
những tên gọi nầy, đọc Tam Pháp Độ Luận, chương
ba.
-
Sự giải thích
về giả đế của sư Huệ Viễn chịu ảnh hưởng mạnh
từ Đại thừa luận. Về sau sư đưa ra một định
nghĩa bao gồm bốn mặt khác về giả hữu là nhân sinh
giả, nhân thành giả, và tương tục giả (T44,
479b20-c6). Thêm chi tiết, đọc Chương 6, Thành Thật
Luận. Ý nghĩa của chữ “Giả” hẳn nhiên là rất
quan hệ đây. Luận về sự phát triển của khái niệm
nầy tại Trung Hoa, và mối tương quan với tam đế, đọc
Shioiri Ryodo, Santai shiso no kicho to shite no ke, Indogaku
Bukkyogaku Kenkyu, 5/2, 438-447.
-
Về cú pháp và
lý lẽ tương tự, đọc bài luận của Thái tử
Chiêu-Minh về nhị đế, T52, 247c21-23, và chương 4.
-
Chi tiết về
luận đề nầy, đặc biệt khái niệm về Như Lai Tạng,
đọc Kamata 1964, 64-81.
-
Đọc Sato, 1961,
713-714. Sư Huệ Viễn đưa ra tam chân lí là chân lí thế
tục, chỉ cho các pháp hữu tướng; chân lí tối thượng,
chỉ cho các pháp vô tướng; và một thực đế, chỉ
cho các pháp tướng chẳng hữu chẳng vô.
Chương
Sáu
-
Luận đề Daijo
sekaikan no kicho to shite no ke, Shina Bukkyo no kenkyu, Vol.2,
1979, 327-349 của Tokiwa Daijo là một nghiên cứu quan trọng
về khái niệm giả hữu trong Phật giáo Đại thừa
Trung Hoa, và sự phát triển của khái niệm nầy trong
Thành Thật Luận, Tam Luận, và các học giả Thiên Thai
Tông. Luận đề Myoho to shite no enyu santai to sono shisoteki
haikei, trong Otani Daigaku kenkyu Nenpo, No.28, 1-42, của
Fukushima Kosai cũng đưa ra cuộc tham cứu xuất sắc về
chủ đề nầy. Whalen Lai đã viết rất nhiều tác phẩm
về chủ đề nầy, gồm có Further Developments of the Two
Truths Theory in China: The Ch'eng-shih-lun Tradition and Chou
Yung's San-tsung-lun, Philosophy East and West, 30/2 (April 1980),
139-161; và Non-duality of the Two Truths in Sinitic Madhyamika:
Origin of the Third Truth, Journal of the International Association
of Buddhist Studies, 2/2 (1979), 45-65. Những tác phẩm của
Hirai Shun'ei về Tam Luận Tông ở Trung Hoa như Chugoku
hannya shisoshi kenkyu, Tokyo: Shunju-sha, 1976, 561-592, có một
chương nổi bật về các học giả Thành Thật Luận đời
Lương. Sưu khảo của Aaron Koseki, Chi-tsang's Ta ch'eng
hsuan lun: the Two Truths and the Buddha Nature, University of
Winsconsin-Madison, 1977, cũng nói đến các học giả nầy
với những điểm thích đáng.
-
Satyasiddhi-sastra?.
T32, No. 1646, 293-373. Bản văn tiếng Phạn nầy đã thất
truyền. Một bản nghiên cứu và phiên dịch sang Anh ngữ
do N. Aiyaswami Sastri, Satyasiddhisastra of Harivarman, Baroda:
University of Baroda, 1978 biên soạn từ phụ bản của bản
chính.
-
Ca., 250-350. Phần
tiểu sử đọc Ch'u san tsng chi chi, T55, 78b28ff.
-
Tôi có thể hiểu
định nghĩa của chữ paramarthasatya trong tương quan
với chữ Niết bàn, nhưng tôi không biết được
xuất xứ hoặc lý luận về định nghĩa của danh từ
nầy qua chữ rupa v.v... là chữ phải chỉ cho ngũ
uẩn, và chỉ trực tiếp về samvrtisatya hơn. Có
thể giả định rằng quan điểm của A tỳ đạt ma giải
thích những pháp nầy như những yếu tố nền tảng.
-
Đọc Tokiwa 1979,
334ff; Fukushima 1976, 20ff.
-
Phần tiểu sử
đọc Hsu kao seng chuan, T50, 461c-463c.
-
Đọc Mochizuki,
Vol. IV3105a. Trí Tạng sẽ được nói đến trong mục kế
tiếp, và Pháp Vân sẽ được nói đến trong chương
cuối.
-
Đọc T52, 250a
16-25 và 251a 8-18. Đọc chương ba.
-
Phần tiểu sử
đọc Hsu kao seng chuan, T50, 465c-467b.
-
Biểu đồ về
bản-mạt, đọc Whalen Lai, Chou Yung vs Chang Jung (về
sunyata); The Pen-mo Yu-wu controversy in the fifth century China,
Journal of the International Association of Buddhist Studies, ½
(1978), 23-44. Như Whalen Lai nói (p.23): “Bản có nghĩa là
yếu tính cội nguồn trong khi mạt chỉ cho những cái
phụ thuộc từ bản sinh khởi”.
-
Giải thích của
Tam Luận tông về nhị đế được giải thích trong
chương kế tiếp.
Chương
Bảy
-
Phần tiểu sử
đọc Hsu kao seng chuan, T50, 477b-478b.
-
Chỗ nầy chỉ
cho ba bộ luận Trung luận, T30, No.1564, 1-38; Thập nhị
môn luận, T30, No. 1568, 159-167, Bách luận T30, No.1569,
168-181, lại đưa thêm Đại Trí Độ Luận vào.
-
Ý nghĩa của
“Tân Tam Luận Tông” và chỗ đồng nhất với “Cựu
Tam Luận Tông” trở thành vấn đề chưa được giải
quyết rõ ràng. Robinson, Early Madhyamika, 162-173, luận về
“The lineage of the Old Three Treatise Sect,.” Hirai, 1976,
232- 241 cũng nói đến đề mục nầy.
-
Thư mời được
lưu giữ trong T46, 821c-822b. Ngoài ra, đọc Hurvitz, Chih-i,
162- 164.
-
Sự tương tự
trong nhiều đoạn văn ghi là của Thiên Thai Trí Khải,
đặc biệt trong Pháp Hoa Văn Cú đối với những luận
đề về kinh Pháp Hoa của sư Cát Tạng, có thể dễ
hiểu là từ sư Quán Đảnh, môn đồ và cũng là người
sao chép bản thảo của Thiên Thai Trí Khải, người có
nhiều thời gian và cơ hội nhìn qua những tác phẩm của
sư Cát Tạng, giữa những thời gian Trí Khải Đại Sư
thuyết giảng với bản ghi chú sau cùng của tôn giả
trước khi trở thành các tác phẩm Pháp Hoa Văn Cú, Pháp
Hoa Huyền Nghĩa, và Maha Chỉ Quán. Thí dụ, sư Quán Đảnh
đã ghi lại trên bài tựa viết cho Pháp Hoa Văn Cú rằng
lần đầu tiên nghe được những bài thuyết giảng của
Thiên Thai Đại Sư tại Kim Lăng vào năm tôn giả 27 tuổi,
nhưng hoàn tất lần hiệu đính sau cùng vào năm 69 tuổi!
(T34, 1b19-20). Nhà xuất bản hẳn là đã có thừa kiên
nhẩn. Đọc thêm chi tiết, Hirai 1985.
-
Một tác phẩm
quan trọng khác của Tam Luận trong thời kỳ nầy là “Đại
thừa tứ luận huyền nghĩa” của Chun-cheng, một phần
còn lưu truyền trong Zokuzokyo, Vol.74. Tác phẩm nầy có
thể chiếu sáng vào những tác phẩm của Tam Luận Tông,
và cho thấy trong số những tác phẩm của Cát Tạng, có
bao nhiêu tác phẩm là nguyên bản.
-
Khúc chiết hơn,
bản dịch về những luận đề Mulamadhyamikakarika của
sư Cưu Ma La Thập, bởi Ch'ing-mu (T30, 1-38).
-
Một tăng sĩ
người Nhật thuộc truyền thống Sharon gia nhập những
tự viện Daianji và Saidai-ji gần Nara. Không được biết
nhiều về sư Ancho, ngoài phần tiểu sử ghi sư là một
người có biện tài tại Sanron và Mikkyo. Luận đề về
Trung Quán Luận Sớ nầy của sư Cát Tạng được xem là
một nghiên cứu điển hình của truyền thống Sharon tại
Nhật Bản.
-
Chi tiết về các
nhà nầy được trình bày trong những luận đề The First
Systematizations of Buddhist Thought in China, Journal of Chinese
Philosophy 2, 1975, 361-388 của Hurvitz; và những luận đề
của Whalen Lai 1980, 139-161.
-
Đọc Chương
Hai.
-
Một trong những
môn đồ lớn của sư Cưu Ma La Thập. Đọc chi tiết tiểu
sử trong Robinson, Early Madhyamika, 115ff.
-
Một phương pháp
được dùng tại Trung Hoa vào giai đoạn Phật giáo sơ
thời, phiên dịch một từ [trong kinh Phật] bằng cách
tìm một chữ phù hợp trong Hoa ngữ, đặc biệt từ Lão
giáo, khiến dễ hiểu. Nhiều người học Phật tại
Trung Hoa chỉ trích phương pháp nầy như một cách đánh
lừa, gồm có sư Đạo An.
-
Lưu truyền trong
bài tựa kinh Duy Ma Cật, Ch'u san tsang chi chi, T55, 59a2-3.
-
Để chính xác,
sư Ancho nói: “Cái Lục Gia muốn nói ở đây là Thất
Tông, ngoại trừ cái biến thể của Bản”. Tuy nhiên,
cũng có người nói rằng điều nầy không đúng, và Lục
Gia chỉ cho Thất Tông, ngoại trừ “Bản” (T65, 93a
15-18). Tôi chưa thấy được có gì quá khác biệt.
-
“Sơn môn”, sư
Cát Tạng muốn nói đến các học giả của khuynh hướng
gọi là “Tân” Tam Luận Tông. Đọc ghi chú dưới đây.
-
Theo ghi chú trong
Kokuyaku issaikyo, version “Chung kuan lun shu ( Kokuyaku
issaikyo, Ronshobu 6, Miyamoto Shoson, et, al., (tr.), Tokyo: Daito
Shuppansha, 1939, 110, note 28), đây có thể viết lầm là
sư Pháp Trúc Thâm (Chu Fa-shen, 286- 374). Đọc Ui Hakuju, Ui
Hakuju chosaku senshu, vol. 2, Tokyo: Daito Shuppan- sha, 10. Ancho,
T65, 93a 28.
-
Bản dịch
Pancavimsati-sahasrika-prajnaparamita (T8, 405b3-5) của sư Cưu
Ma La Thập: “Nếu chúng sinh trước Hữu (yu), sau Vô
(wu), thì Phật và Bồ tát đã lỗi lầm. Tất cả các
pháp và năm đạo luân hồi cũng không khác. Nếu là
trước Hữu, sau Vô thì Phật và Bồ tát đã lỗi lầm.”
-
Bản văn nầy
được trưng dẩn từ luận đề của Ancho nhưng ngày nay
đã thất truyền. Mochizuki Bukkyo daijiten (vol.2, 1691b) nói
rằng “sơn môn” vốn chỉ cho các học giả Tam Luận
tông thuộc Mt. She. Sư dẩn chứng “Đại thừa tứ luận
huyền nghĩa” của Chun-cheng (đọc ghi chú ở trên) nói
rằng: “Giáo lý của Sơn Môn luôn luôn khác với giáo
lý của Thành Thật Luận”. Như vậy, có thể “Sơn môn
huyền nghĩa” có thể bắt nguồn từ Tam Luận buổi sơ
thời, phê bình vị trí của Thành Thật Luận.
-
Hurvitz cho rằng
câu nầy là cách dịch cụm từ sunyataivarupam của
người Trung Hoa. Đọc Hurvitz, 1975a, 369.
-
Còn gọi là Chi
Độn, một nhà chú giải về truyền thống bát nhã tại
Trung Hoa. Đọc Chen, 1964, 65-67, và Zurcher 1959, 116ff.
-
Hurvitz đưa ra
một đoạn văn dịch giả thử về luận đề của Ancho,
và thú nhận rằng chưa thể làm sáng tỏ vấn đề; đọc
Hurvitz, 1975a, 370. Tôi nhận thấy không cần phải lập
lại chỗ nầy làm chi.
-
Theo Ancho người
nầy chỉ cho sư Pháp Vân, môn đồ của sư Trúc Pháp
Thâm, là người viết “Tâm Vô Luận”. Đọc T65,
94b15-15.
-
Chỗ nầy cũng
được trưng dẩn từ “Sơn Môn Huyền Nghĩa”.
-
Đối với vấn
đề nầy, Hurvitz nói rằng: “Phật học, một cách đơn
giản, không quan hệ đến hữu hoặc vô, đến một cái
Ding an sich (thing-in-itself, 1975a, 370). Tôi không đồng
ý. Nhiều khía cạnh và kinh luận Phật giáo có đủ để
nói về sự liên quan đến vấn đề bản thể liên tục
phủ nhận (và lập đi lập lại) rằng cảnh giới hiện
hữu trong ý nghĩa có một chủ thể bất biến. Các nhà
Trung Quán chắc hẳn không bỏ công gầy dựng một bản
thể học để hỏi cái gì “ngoài kia”; Họ đã tránh
tối đa việc dựng nên bất cứ lí thuyết thuộc phạm
vi khái niệm nào. Tuy nhiên, ngay cả một triết gia Trung
Quán cũng phải, hoặc nên thú nhận (dùng văn từ của
chính họ) rằng một mô tả gượng gạo về chân lí
như duyên sinh từ hiện tượng giả tạm thì có giá trị
(mặc dù không tuyệt đối chính xác) hơn là [chủ
trương] thế giới hiện tượng có chủ thể bất biến,
hoặc [chủ trương] đoạn diệt. Phật giáo, như Hurvitz
nói, đặc biệt quan tâm đến những chủ đề thuộc
phạm vi nhận thức và phổ độ, nhưng không có nghĩa
rằng Phật pháp bỏ qua bản thể học. Một thí dụ rõ
ràng đã nói đến ở trên, đó là, phê bình của sư
Tăng Triệu về “tâm vô”, mà “cái lỗi nằm ngay ở
chỗ không nhận được tánh không trong thế giới hiện
tượng”, một chỗ đứng của bản thể vượt lên
trên hạnh phổ độ của tâm vô. Cũng vậy, sư Cát Tạng
phủ nhận hai vị trí tư tưởng kế tiếp, cho thấy
rằng sư không hoàn toàn lơ là vấn đề bản thể, và
sư chối bỏ chủ thuyết “duy tâm”.
-
Không được
biết nhiều về vị nầy, mặc dù được biết có dự
cuộc tranh biện với sư Trúc Đạo Lâm về ý nghĩa của
không tức sắc. Đọc phần tiểu sử trong Kao seng chuan,
T50, 340a-b.
-
Ngũ nhãn là nhục
nhãn, hoặc thấy được bằng mắt cha mẹ sinh; thiên
nhãn, hoặc cái thấy của người trời, có thể cảm
nhận được cảnh giới vị lai của chúng sinh; tuệ
nhãn, hoặc cái thấy của các bậc nhị thừa, Thanh văn,
và Duyên giác, là những bậc cảm nhận được tánh
không của thế giới hiện tượng; pháp nhãn, hoặc cái
thấy của Bồ tát, là bậc cảm nhận được vạn pháp
vì cứu độ chúng sinh; và Phật nhãn, tức cái thấy
của Phật, bao gồm tất cả những cái thấy trên.
-
Ancho cho rằng vị
nầy là sư Tao Yi, môn đồ của sư Trúc Pháp Thải, là
người quay sang học với sư Đạo An. Phần tiểu sử,
đọc Kao seng chuan, T50, 354b- 355a.
-
Bản dịch
Pancavimsati-prajnaparamita Sutra của sư Cưu Ma La Thập: “Tu
Bồ Đề, ý ông nghĩ sao? Những vật biến hiện khác
nhau từ nhà ảo thuật làm ra, hoặc là voi, ngựa, bò,
cừu, nam, nữ; những vật nầy thì thế nào? Những ảo
tượng nầy có có nghiệp nhân và duyên có cái dụng
như nghiệp nhân và duyên sa vào địa ngục hoặc tái
sinh nơi cõi phi tưởng phi phi tưởng thiên, hay không?.
Chúng không có, Tu Bồ Đề. Những ảo tượng nầy là
không, và không có thực lí. Làm sao lại có thể nói
rằng chúng có nghiệp nhân và duyên có cái dụng như
nghiệp nhân và duyên sa vào địa ngục hoặc tái sinh
nơi cõi phi tưởng phi phi tưởng thiên?. (T8, 413b16- 22).
-
Một luận đề
khác của Yu Fa-k'ai và Chu Tao-lin (Trúc Đạo Lâm). Đọc
tiểu sử trong Kao seng chuan, T50, 350b; Zurcher 1959, 140ff.
-
Bản dịch
Pancavimsati-prajnaparamita Sutra của sư Cưu Ma La Thập: “Ngài
Tu Bồ Đề, người có trí tuệ thâm sâu, dạy rằng chư
pháp tướng không diệt giả danh” (T8, 277b5-6).
-
Hurvitz tránh hoàn
toàn không nói đến chỗ nầy; 1975a, 371.
-
Không rõ thời
gian. Chi tiết, đọc Whallen Lai 1980, 142ff.
-
Whallen Lai: “Không
phủ nhận chân lí giả định (provisional reality), phủ
nhận chân lí giả định, và (thấy được rằng) chân
lí giả định như vậy là không hoặc phủ định”
1980, 143.
-
Được biết là
thầy của Chih-lin (Trí Lâm), người biên soạn luận đề
về nhị đế. Tiểu sử Trí Lâm, đọc Kao seng chuan,
T50, 376a-b.
-
Tôi chưa thấy
đưa ra sự khác biệt giữa samvrtisatya và
paramarthasatya.
-
Chỗ nầy có thể
rõ nghĩa hơn, nếu đọc là: “ba nhóm hữu vi”. Như vậy
chỉ cho pháp duyên khởi, chia làm ba nhóm: vật chất
hoặc sắc pháp; tinh thần hoặc tâm pháp; và phi sắc
phi tâm duyên sinh pháp.
-
Có thể chỗ nầy
muốn nói đến mười sáu pháp quán của Tứ Diệu Đế,
bốn cách quán khổ đế: tất cả pháp sinh và diệt,
nên là vô thường (anitya), đời là khổ (dukkha), thiếu
chủ thể (sunyata), và không có cái ngã cố định
(anatmaka); quán tập đế qua bốn cách: những tạo tác
vô minh nầy sinh ra quả khổ (hetu), những tạo tác vô
minh nầy tụ hội quả khổ (samudaya), những tạo tác vô
minh nầy khiến quả khổ tiếp tục (prabhava), và những
tạo tác vô minh nầy làm duyên cho quả khổ sinh
(pratyaya); quán diệt đế qua bốn cách: diệt những trói
buộc vào sắc (nirodha), dứt phiền não (santi), sự vi
diệu của vô lậu hoặc (pranita), và tự do có được từ
việc tháo gỡ phiền não (nihsarana); quán đạo đế qua
bốn cách: Đạo tịch diệt (marga), như vậy mà khế hợp
với chân lí (nyaya), hành trì đưa đến Niết bàn
(pratipatti), và đạo vượt thoát luân hồi (nairyamika).
Đọc Nakamura, Bukkyogo daijiten, 662- 663.
-
Nói về một vị
“cổ đức” mà Ancho nhận ra trong Sơn Môn Huyền Nghĩa
là sư Seng-chuan (Tăng Thuyên), một trong những bậc thầy
của sư Cát Tạng. Đọc chi tiết trong Robinson, Early
Madhyamika, 165ff. Tiểu sử của sư Tăng Thuyên, đọc Kao
seng chuan, T50, 369c.
-
Hurvitz dùng nhóm
chữ “hạt dẻ bị mối ăn rỗng ruột”, nhưng thực
ra Whallen Lai dịch là “hạt dẻ rỗng ruột” (meatless
chestnut), gần với nghĩa của ẩn dụ hơn.
-
Dẩn chứng bởi
Whallen Lai 1980, 146. Những đoạn văn tương tự tìm thấy
trong “Erh ti i” (Nhị đế nghĩa), T45, 24c và 115a.
-
Sư Cát Tạng đưa
ra nhiều tham khảo rãi rác về ẩn dụ nầy. Đọc Ta
ch'eng hsuan lun (Đại thừa huyền luận), T45, 24c-25a.
-
Sư Cát Tạng cho
rằng chỗ nầy “không khác với nghĩa không tức sắc”
(T42, 29b23). Tuy nhiên, như Whallen Lai đưa ra (trang 159, số
31), sự đồng nhất giữa sắc và không, cái mà sư Cát
Tạng cho là nguyên thủy, thì không hợp với các pháp
bất không giả danh nầy.
-
Ancho, khác với
Cát Tạng đưa chỗ nầy về cho Tao-lin và truyền thống
“không tức sắc” (T65, 96a 15).
-
Với Hurvitz, mặt
khác, chỗ nầy thực sự là chỗ siêu việt của vị trí
thứ hai. Ông kết luận rằng “đó là cái thấy thứ
hai gần nhất với truyền thống Trung Quán chân chính:
với đôi mắt rộng mở, hành giả thấy được những
dữ kiện kinh nghiệm hằng ngày, hoặc là, cao nhất là
cấu trúc của vạn pháp; qua đôi mắt bát nhã, hành giả
thấy được không (sunyata), nhưng (và đây là chỗ khác
biệt) hành giả thấy suốt cùng với đôi mắt đó, mà
không có sự khác biệt ở giữa”. Hurvitz, 1975a, 380.
Nhưng với những người chủ trương “trái dưa nổi”
có thấy rằng không có gì khác nhau giữa trái dưa nổi
và trái dưa chìm?.
-
Đọc phê bình
của sư Cát Tạng về điểm nầy ở trên.
-
Whallen Lai tranh
cãi rằng Chou Yung đã không chọn bất cứ đề tài nào
trong ba đề tài trên, và cho rằng trong Nam Tề Thư, Chou
Yung được điểm là “tìm ra chỗ chung đồng” của
ba vị trí nầy. Đọc Whallen Lai 1980, 143.
-
Tạm so sánh sự
phân tích của tôi đối với sự phân tích của Hurvitz
và Whallen Lai sẽ thấy rằng có nhiều đề mục có thể
được giải thích ít nhất là ba cách khác nhau.
-
Tôi thấy khó
chấp nhận được nhiều người viết luận đề với
những tựa đề giống in hệt nhau như “Nhị đế luận
và...”, với “...” những phần in hệt khuôn thước
của “Thất Tông” và “Tam Luận”. Chúng ta sẽ không
bao giờ biết chắc chắn trừ khi ai đó hy hữu khám phá
ra rằng Sơn Môn Huyền Nghĩa hoặc một số lớn những
văn bản “thất lạc” được trích dẩn.
-
Chi tiết về Tam
Luận, và luận cứ của sư Cát Tạng về nhị đế, đọc
Koseki, 1977.
-
Như Koseki dịch:
“Nhị đế là sự giải thích tổng quát về giáo
thuyết, một phương thức giả lập cho [tánh] tương
nhập, chân lí thâm sâu của vô thực thể, và tên gọi
rốt ráo cho việc tìm cầu Trung Đạo. Được kể rằng
Như Lai luôn luôn thuyết pháp trên căn bản nhị đế:
thứ nhất là tục đế, và thứ hai là nguyên đế (the
first principle truth). Vì vậy, nhị đế chỉ là giáo lý;
chúng không dính líu gì đến các phạm vi nguyên lý”
(T45, 15a). Đọc Koseki, 1977, 15ff.
-
Bản dịch
Pancavimsati-prajnaparamita Sutra của sư Cưu Ma La Thập: “Xá
Lợi Tử, Bồ tát ma ha tát trụ nơi nhị đế vì chúng
sinh mà thuyết chân lí thế gian và chân lí thù thắng.
Xá Lợi Tử, mặc dù nhị đế bất khả đắc bởi chúng
sinh, Bồ tát ma ha tát thực hành bát nhã ba la mật, và
sử dụng phương tiện thiện xảo mà thuyết pháp cho
chúng sinh”. (T8, 405a 15-18). Cũng đọc Đại Trí Độ
Luận về phần nầy, T25, 703b.
52. Bản
dịch Pancavimsati-prajnaparamita Sutra của sư Cưu Ma La Thập
chỉ có “Bồ tát ma ha tát nói về chúng sinh cả hữu
và vô dựa trên tục đế, không trên đệ nhất nghĩa
đế” (T8, 378b9-10). Không thấy nói đến “chẳng hữu
chẳng vô”.
53. Kinh
Hoa Nghiêm nói: “Từ trong trí không-hai, / Đấng Sư Tử
(Phật) xuất hiện, / chẳng trói buộc vào pháp nhị
nguyên / vì Ngài biết rằng chẳng phải một cũng chẳng
phải hai [hoặc, “chẳng có một chẳng có hai”] (T9,
610a 21-22).
54. Nguyên
văn đoạn kinh Hoa Nghiêm rất rõ ràng hơn là đoạn văn
của sư Cát Tạng:
Pháp được
biết bởi kẻ trên thế gian nầy là pháp thế tục,
-
Ngoài
ra, nên đọc Thomas Cleary, The Flower Ornament Sripture,
Boudler: Shambala, Vol.1, 1984, 391.
-
Chương
Tám
(T9,
447a 9-12)
Như
hư không, và không có tự tánh
Tất
cả mong muốn hiểu rõ ý nghĩa chân đế.
Vậy
nên các Bồ tát phát tâm [Bồ Đề].
Tất
cả mong muốn hiểu rõ ý nghĩa thế tục đế.
Các
Bồ tát vì vậy mà phát tâm [Bồ Đề].
Tất
cả các pháp vượt trên ngôn từ;
Là
con đường của tên gọi, chữ viết, đối đáp, tiếng
và lời.
-
Phần phiên dịch
và chú thích đề mục nầy có trong bản dịch.
-
Tôi sẽ không
nói chi tiết về tiểu sử của [hai vị tổ] Huệ Tư và
Trí Khải, vì các tác phẩm Tây phương đã nói đến,
ngoài ra chi tiết tiểu sử không trực tiếp liên quan ở
đây. Tác phẩm “Trí Khải” 1960-1962 của Hurvitz đặc
biệt phần tiểu sử (p.100- 182) là một trình bày điển
hình. Về tổ Huệ Tư, đọc tác phẩm của Paul Magnin,
1979.
-
Đọc bản phiên
dịch và chú thích Anh ngữ của Donner, 1976, 41.
-
T49, 129-475, lịch
sử truyền thừa của Thiên Thai Tông, bắt đầu với Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni. Chí Bàn (Chih-p'an) biên soạn vào
năm 1269. Tiểu sử tổ Huệ Văn ở đoạn thứ sáu,
T49, 178b11-179a4.
-
Ba loại trí tuệ
nầy được Đại Trí Độ Luận nói chi tiết, T25,
257c-260cff. Đọc Lamotte 1976, Tome IV, 1735ff. Phần dẩn
chứng ở đây tìm thấy trong T25, 258c25-27 và 260b15-26;
Lamotte 1976, IV, 1758-1759. Với Thiên Thai Tông, tam tuệ nầy
được giải thích song song với tam đế; nhất thiết trí
(sarvajnata) khế hợp với không đế, nên được giải
thích như trí (về tánh không) của các pháp”. Đạo
chủng trí (margajnata) khế hợp với giả tướng, chỉ
cho trí tuệ Bồ tát biết kia là tất cả giả cảnh,
đặc biệt vì muốn cứu giúp chúng sinh. Nhất thiết
chủng trí (sarvakarajnata) chỉ cho trí tuệ Trung Đạo tối
thượng, trí tuệ viên mãn của chân lí như thị. Đọc
Fa hua hsuan i, T33, 713c-714c. Thiên Thai Trí Khải cũng đưa
ra sự tương ứng giữa tam tuệ nầy đối với tam quán.
Đọc Nita Masaaki 1981, 458-462 và 590-594. Tuy nhiên, về
sau, đây là những chú thích của Thiên Thai Trí Khải, và
không rõ ràng trong nguyên bản Đại Trí Độ Luận do tổ
Huệ Văn đọc.
-
Thí dụ, đọc
Ando 1968, 14-16, Shimaji 1977, 225 và 248; và Mochizuki, Bukkyo
daijiten I, 327-328. Đây là một vấn đề tranh cãi đối
với “nhất tâm tam trí” có giống như “nhất tâm
tam quán” của Thiên Thai Trí Khải không.
Ocho Enichi
giảm thiểu ảnh hưởng của tổ Huệ Văn trên triết
học của Thiên Thai Trí Khải, và nhấn mạnh vào vai trò
của tổ Huệ Tư và giáo pháp của tôn giả về Pháp
Hoa tam muội. Ocho tranh biện rằng pháp quán nhất thừa
(ekayana) của Trí Khải Đại Sư với kinh Pháp Hoa đã
đưa đường cho tư tưởng của Đại Sư vào tánh viên
dung của vạn pháp, và đặt nền móng cho khái niệm đạt
đến ba pháp quán trong một niệm, và cùng lúc chứng
được ba trí. Đọc Ocho 1971, đặc biệt những chương
Nangaku Eshi hokke zammai, 265-278, và Tendai Chigi no hokke
zammai, 279-303.
-
Luận đề chi
tiết về tính cách lịch sử của phần tiểu sử nầy,
cùng nội dung tư tưởng và giáo pháp của tổ Huệ Văn,
đọc Taira Ryosho, Emon Zenshi no mushi dokuga ni tsuite, 1950,
19-34.
-
Đọc Duy Ma Kinh
Huyền Sớ, T38, 525a 17-18, do Thiên Thai Trí Khải viết
trong những ngày cuối đời. Đây là một trong số rất
ít tác phẩm tự tay đại sư biên soạn. Pháp Hoa Huyền
Nghĩa, mặt khác, là từ những bài giảng của đại sư,
do môn đồ là sư Quán Đảnh ghi lại.
-
“Chỉ và Quán”:
samatha-vipasyana (T46, 24a-25b).
-
Đọc luận đề
về các bộ kinh ngụy tác trong Hoa ngữ, chương ba. Kinh
Anh Lạc chỉ đề cập đến tam quán một lần, trong
tương quan với nhị đế: “[thứ nhất] tùng giả
danh nhập không nhị đế quán, [và thứ hai] tùng
không nhập giả danh hồ đẳng quán. Hai pháp quán
nầy chỉ là pháp phương tiện. [Thứ ba], từ hai pháp
quán trên, nhập trung đạo đệ nhất nghĩa đế quán.
Cả nhị đế chiếu soi, và tâm tâm tịch diệt”. Tôi
dịch hai chữ threefold contemplation trong kinh là “tam
quán”, vì theo tư tưởng Thiên Thai Tông, kinh nầy được
giải thích là pháp quán tiệm tiến, đối lại với
giáo pháp tam quán của Thiên Thai Trí Khải là pháp quán
đồng lúc và đồng thời cả ba mặt.
-
Chỗ nầy hầu
như trích dẩn từng chữ từ kinh Anh Lạc. Đọc ghi chí
ở trên.
-
Cả hai cực đoan
chủ trương thường – rằng hiện tượng có chủ thể
cố định, không thể hoại diệt; và chủ trương đoạn
– rằng hoàn toàn không có thực hữu.
-
Trong bài giới
thiệu tác phẩm Maha Chỉ Quán (T46, 1c-2a), sư Quán Đảnh
kể ra ba phương pháp chỉ và quán được tổ Huệ Tư
trao truyền cho Thiên Thai Trí Khải: tiệm thứ, bất
định, và viên đốn. Thêm chi tiết, đọc Donner 1976,
42-51.
-
Ba mặt Không,
Giả, và Trung?.
-
Ba con mắt của
Mahésvara, đấng sáng tạo hoặc Thượng Đế trong tín
ngưỡng Ý Đại Lợi, như biểu tượng tán tụ của “
ba trong một, và một trong ba”.
-
Chi tiết về
kiến hoặc và tu hoặc, đọc Chappell 1983, 90ff.
-
Chi tiết về
điểm nầy và tam trí, đọc ghi chú 5. Tư tưởng của
Thiên Thai Trí Khải ở đây nối kết tam quán với tam
trí đưa ra một sự liên kết giữa tư tưởng về tam
trí của tổ Huệ Văn với tam quán của Thiên Thai Đại
Sư.
-
Những mặt khác
nhau được đưa vào biểu đồ 6. Sự khế hợp giữa
danh từ chuyên biệt và tư tưởng trong triết học Trí
Khải càng rõ ràng hơn khi so sánh biểu đồ nầy với
biểu đồ 1.
-
Một thí dụ về
đường đi của tam đế, đọc Swanson 1983, 51-72.
-
Đọc Tứ Tất
Đàn được trình bày trong Đại Trí Độ Luận, phẩm 2.
-
Đọc chương
một.
-
Có thể độc
giả sẽ không đồng ý cách tôi dịch chữ li là
chân lí (reality). Thường thì được dịch là nguyên lý
(principle), đối lại với shih (sự / phenomena); nhưng với
Trí Khải Đại Sư thì chữ nầy đồng nghĩa với chữ
“thực tướng”, “chân thực”, “pháp tánh”... chỉ
cho đạo bất khả thuyết tức cái thực tại khách quan
và chủ quan là, và chỉ có Phật mới nhận biết. Trí
Khải cũng dùng chữ nầy để đối lại với chữ sự,
không phải rằng sự không thực (vì một cách rốt ráo
thì là “đồng”), nhưng với nghĩa lí là chân tánh
trong khi sự là giả tướng.
-
Thiên Thai Trí
Khải rõ ràng chấp nhận không nghi ngờ rằng tất cả
bản văn bắt đầu với câu “Tôi nghe như vầy...”
được gọi là kinh, là những lời từ ứng thân Phật
Thích Ca Mâu Ni thuyết ra. Đại sư dẩn chứng nhiều bản
kinh được xem là ngụy tác như kinh Anh Lạc, kinh Nhân
Vương (đọc chương ba), mà không có dấu hiệu gì về
những bản kinh có xuất xứ đáng ngờ vực, ngay cả
trong thư mục Xuất Tam Tạng Ký Tập (Ch'u san tsang chi
chi). Mặt khác, khái niệm về Phật và Pháp của Trí
Khải Đại Sư dựa trên kinh Pháp Hoa. Phật là thường
hằng. Hoạt dụng của Ngài không chỉ giới hạn 80 năm
trên mặt đất với [ứng thân] Thích Ca Mâu Ni. Ngài đã
giác ngộ từ vô lượng kiếp và tiếp tục sự phổ độ
không bao giờ dừng nghỉ. Cũng vậy, như Đại Trí Độ
Luận nói: “Phật pháp không giới hạn nơi những gì
được thuyết ra từ [ứng thân] Phật, mà bao gồm tất
cả những lời hay ý đẹp trên khắp hoàn vũ nầy. Tất
cả những văn từ vi diệu đều bắt nguồn từ Phật
pháp” (T25, 66b2- 4). Với nghĩa nầy, sự phân biệt kinh
“ngụy” (từ Trung Hoa hoặc từ những khác) và “chân”
(từ Ấn Độ) không còn thích hợp. Luận về thái độ
của Trí Khải đối với những bản kinh được xem là
ngụy tác nầy, đọc Makita 1975, 201-215.
-
Thêm chi tiết,
đọc bản dịch.
-
T33, 572-679. Bản
văn nầy làm căn bản cho Hokkekyo gisho, luận đề Nhật
ngữ sớm nhất về kinh Pháp Hoa, được xem là của
Shotoku Taishi. Huyền thoại ghi rằng Shotoku là hậu thân
của tôn sư Thiên Thai Trí Khải, tức tổ Huệ Tư. Những
học giả Nara trong thời Heian thích đưa ra sự “tương
phản” giữa lời phê bình của Thiên Thai Trí Khải về
sư Pháp Vân, và việc Shotoku (nếu cho là hậu thân của
tổ Huệ Tư) dùng những tác phẩm của sư Pháp Vân!.
Đọc Nakao 1976, 276-277.
-
Đọc phần tiểu
sử trong Kao seng chuan, T50, 463c-465a; Tamura 1972, 175-221.
-
Không rõ “hiện
tại và quá khứ” ở đây chỉ cho kinh Pháp Hoa và giáo
lý có trước kinh Pháp Hoa, hoặc là chú giải về kinh
Pháp Hoa của sư Pháp Vân vào thời nầy đối với những
chú giải của các học giả trước đó. Nghĩa thứ hai
dường như ổn thỏa hơn với những luận đề của sư
Pháp Vân; nhưng Trí Khải giải thích “quá khứ” với
nghĩa tiền-Pháp-Hoa, và mở rộng sự phê bình trên căn
bản nầy.
-
Đây là lập
trường của Trí Khải, và tôi không chắc chắc rằng
đại sư đã công bình với sư Pháp Vân. Cần khảo sát
thêm về những bản chánh văn của sư Pháp Vân, tức
“Pháp Hoa Nghĩa Ký”, để lượng giá vị trí của sư
Pháp Vân.
-
Thêm chi tiết,
đọc bản dịch.
-
Thêm chi tiết,
đọc bản dịch.
-
Đọc ghi chú
trong bản dịch với phần luận về những bài kệ nầy.
-
Hiển nhiên rằng,
nói thẳng, sự giải thích nầy dựa vài cách cấu trúc
của Hoa ngữ, và với sự kiện rằng mỗi nhóm chữ
chứa đựng ba đặc tính. Tuy nhiên, theo lý thuyết, sự
giải thích nầy có ý nghĩa, và thành công hơn là đưa
ra cùng ba cách đọc với “thập pháp giới”. Thêm chi
tiết, đọc bản dịch.
-
Trong Moho chih
kuan (T46, 54a 5-9), chỗ nầy được đưa ra một bước xa
hơn để đầy đủ khái niệm “nhất niệm tam thiên”.
Đọc Hurvitz, Chih-i, 271ff.
-
Đọc đồ biểu
so sánh những thứ bậc chứng đắc và sự khế hợp qua
Tứ Giáo trong Chappell 1983, 32-33.
-
Thêm chi tiết,
đọc bản dịch.
-
Thêm chi tiết,
đọc bản dịch.
-
Vì vô lậu, tái
sinh trong thân gọi là “ý sinh thân”.
-
Được phát họa
trong đồ biểu tám.
-
Được phát họa
trong đồ biểu tám.
-
Đọc Rhodes 1984,
53-91.
-
Lối phân tích
nầy rất phức tạp. Đọc đồ biểu 10 như một cố
gắng tóm kết nội dung. Một cách căn bản, Thiên Thai
Trí Khải cố gắng vượt trên hai chữ hữu và vô, và
đến với nhị đế qua Không, Giả, và Trung.
-
Dẩn chứng nầy
kéo dài một cuộc tranh luận về việc tại sao Phật,
khi còn là Bồ tát, có thể rơi vào địa ngục. Việc
nầy không khiến chúng ta lưu tâm ở đây, điểm khó
khăn là việc hiểu cho được nhị đế. Đọc chi tiết
bản dịch.
-
Chi tiết về sư
Tăng Mân, đọc chương sáu.
-
Đọc chi tiết,
chương năm.
-
Đọc chi tiết,
chương bốn.
-
Luận chi tiết
về bảy loại nhị đế, đọc Ando 1975, 229-271.
-
Khái niệm của
Trí Khải Đại Sư về sự chuyển tiếp từ một quả vị
hoặc giáo pháp đến một thứ bậc khác thì thực sự
phức tạp, và thường là những phân biệt có tính cách
bác học. Mục tiêu cần thiết bởi lẽ theo như trận đồ
chứng đạo qua tứ giáo của Trí Khải Đại Sư (đọc
đồ biểu Chappell 1983, 32-32) những quả vị cao trong một
giáo pháp thấp khế hợp với những quả vị thấp
trong một giáo pháp cao hơn. Thí dụ, quả vị “Bồ
tát” Thông giáo khế hợp với quả vị thất trụ Biệt
giáo, chỉ là quả vị thứ bảy trong thập tín Viên
giáo. Vì vậy một Bồ tát Thông giáo phải nhảy vọt từ
Thông giáo sang Biệt giáo hoặc sang Viên giáo để chứng
đắc Bồ đề viên mãn. Làm cách nào và khi nào những
bước nhảy vọt từ một giáo pháp nầy sang một giáo
pháp khác thì không dễ hiểu.
-
Chỗ nầy là một
phân biệt vi tế hơn, nhưng không phải dễ hiểu điều
Thiên Thai Đại Sư muốn diễn đạt.
-
Tác phẩm Pháp
Hoa Huyền Nghĩa tiếp tục với những chi tiết sâu hơn
dưới hình thức vấn đáp, và dưới các đề mục
“phân định thô tế”, “khai thô hiển tế”, tuy
nhiên, cốt lõi giáo pháp của Thiên Thai Trí Khải về
nhị đế được đúc kết ở đây. Thêm chi tiết, đọc
bản dịch và chú giải.
-
Thêm chi tiết,
đọc chương ba.
-
Đọc T12, 684c19,
nói: “Cái được biết bởi người thế tục là thế
tục đế”.
-
Đọc T12, 684c17,
nói: “Cái được biết bởi người siêu thế gian gọi
là chân lý thù thắng”.
-
Tôi chưa thể
tìm được đoạn dẩn chứng nầy từ kinh Đại Niết
Bàn.
-
Phần tương
quan, đọc đồ biểu 1.
-
Sato, Tendai,
730-733, cho rằng Thiên Thai Trí Khải không bao giờ thực
sự dùng các chữ “không đế”, “giả đế”, hoặc
“trung đế”, mặc dù trong khái niệm về tam quán, đại
sư có dùng các nhóm chữ “không quán”, “giả quán”,
và “trung quán”. Tuy vậy, mối tương quan giữa những
nhóm chữ nầy với sự tương quan giữa nhị đế thì
đã rõ ràng.
-
Thí dụ, đọc
David Chappell, “The teachings of the fourth Ch'an patriarch
Tao-hsin (580-651)”, “Early Ch'an in China and Tibet”;
Whallen Lai and Lewis R. Lancaster, ed., Berkeley Buddhist Studies
Series 3, Berkeley California, 1983, 89- 130.
-
Chi tiết về
truyền thống Tendai của Nhật Bản, đọc Paul Groner,
Saicho: The Establishment of the Japanese Tendai School, Berkeley
Buddhist Studies Series, 1984, và những đề mục đặc biệt
về Tendai, Japanese Journal of Religious Studies, Vol.14, No.
2-3, 1987.
___________________________________________________
Back |